Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 năm 2023 tỉnh Hậu Giang
Trong tháng, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, Tỉnh cũng đã tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư. Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế đều duy trì ở mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,30%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 25,77%; doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi tăng 3,92%, … Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập chung vào sản xuất vụ lúa Thu đông 2023. Tiếp tục đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất rau màu, cây ăn quả, đặc biệt là các cây trồng có giá trị lợi thế cạnh tranh cao, sản xuất theo chuỗi giá trị nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện đã thu hoạch dứt điểm. Năng suất đạt 60,36 tạ/ha, giảm 1,13% (bằng 0,69 tạ/ha) so với cùng kỳ. Sản lượng đạt 453.950 tấn, giảm 2,63% (bằng 12.282 tấn) so với cùng kỳ. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu tập trung các giống: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, còn lại các giống khác chiếm 3,5% …
Lúa Thu đông năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm đạt 27.131 ha, đạt 110,74% kế hoạch tỉnh (24.500 ha), giảm 23,28% (bằng 8.230,8 ha) so với cùng kỳ. Đã thu hoạch được 7.331 ha, giảm 63,78% (bằng 12.907 ha) so với cùng kỳ. Hiện lúa đang ở giai đoạn đẻ nhánh đến trổ chín, sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18 chiếm 50,9%, OM5451 chiếm 38,6%, các giống còn lại RVT, Đài thơm 8, … chiếm 10,5%.
Mía niên vụ 2022-2023: Đã xuống giống dứt điểm đạt 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 33 ha nhiễm sinh vật gây hại (tăng 11 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng. Hiện đã thu hoạch được 1.798 ha, giảm 11,78% (bằng 240 ha) so với cùng kỳ. Chủ yếu thu hoạch để bán mía chục. Giá bán mía nước trung bình từ 2.200-2.600 đồng/kg (Roc 16); 2.000-2.200 đồng/kg (KK3). Diện tích mía còn lại đang ở giai đoạn 9-10 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 2.440,47 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 2,19% (bằng 54,41 ha). Năng suất ước đạt 59,99 tạ/ha, giảm 9,09% (bằng 6,0 tạ/ha). Sản lượng 10 tháng ước được 13.795,71 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 7,85% (bằng 1.174,85 tấn).
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 22.834,03 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 10,26% (bằng 2.125,1 ha). Ước sản lượng 10 tháng được 302.974,75 tấn, tăng 19,27% (bằng 48.952,18 tấn). Thực hiện theo kế hoạch của ngành chức năng về mở rộng diện tích sản xuất rau màu, nuôi thủy sản trên ruộng lúa người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch ước tăng mạnh so với cùng kỳ.
Tình hình gieo trồng và thu hoạch một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của tỉnh:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.113,15 ha, tăng 0,84% (bằng 26 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 10 tháng ước được 31.812,26 tấn, đạt 69,31% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 5,61% (bằng 1.689,85 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.700,14 ha, tăng 2,16% (bằng 36 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 10 tháng ước được 14.034,96 tấn, đạt 77,97% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,31% (bằng 707,68 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.747,94 ha, tăng 2,7% (bằng 256,7 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 10 tháng được 105.962,37 tấn, đạt 110,38% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 32,53% (bằng 26.009,54 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 3.075,14 ha, tăng 9,7% (bằng 271,94 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 10 tháng được 27.749,68 tấn, đạt 59,29% so kế hoạch năm 2023 (46.800 tấn) và tăng 6,2% (bằng 1.620,33 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 731,72 ha, tăng 1,75% (bằng 12,61 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 10 tháng được 7.048,95 tấn, đạt 75,96% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,23% (bằng 475,28 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt… Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính tháng 10/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.282 con, giảm 8,56% (bằng 120 con) so với cùng kỳ (Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp); Đàn bò ước được 4.112 con, tăng 11,29% (bằng 417 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.640 con, tăng 1,31% (bằng 1.883 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 103.009 con, tăng 1,68% (bằng 1.703 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.316,61 ngàn con, tăng 2,25% (bằng 95,07 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.665,06 ngàn con, tăng 5,43% (bằng 85,75 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
1.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.629,49 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 1,62% (bằng 25,97 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 15.034 m3, tăng 2,99% (bằng 437 m3). Sản lượng củi khai thác ước được 63.473 ste, tăng 0,61% (bằng 387 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Trong tháng 10/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 298,63 ha, tăng 23,88% (bằng 57,57 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 11.073,63 ha, đạt 99,76% so kế hoạch năm và kế hoạch mở rộng diện tích nuôi thủy sản trên ruộng lúa (11.100 ha) và tăng 24,74%1 (bằng 2.196,3 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 10.870,38 ha, tăng 24,93% (bằng 2.168,99 ha), chủ yếu là tăng diện tích nuôi cá trên ruộng lúa vụ 3 (Vụ lúa Thu đông). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 77,99 ha, tăng 1,88% (bằng 1,44 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 97,2 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 106,05 ha, tăng 33,5% (bằng 26,61 ha); Thể tích nuôi lươn được 15.729 m3, tăng 54,6% (bằng 5.555 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 10/2023, tổng sản lượng thủy sản được 9.689,87 tấn, tăng 8,58% (bằng 765.47 tấn) so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản 10 tháng năm 2023 ước được 65.684,63 tấn, đạt 76,38% so kế hoạch năm (86.000 tấn) và tăng 6,12% (bằng 3.785,68 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Đặc biệt là nhiều hộ mở rộng hoặc chuyển đổi diện tích từ diện tích đất vườn còn trống, diện tích nuôi chưa có hiệu quả sang nuôi các đối tượng thủy sản khác có giá trị kinh tế, phù hợp nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm an toàn; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân (như nuôi Ba ba). Cụ thể như sau:
- Sản lượng thủy sản khai thác 10 tháng ước được 2.193,98 tấn, giảm 1,27% (bằng 28,24 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 10 tháng ước được 63.490,65 tấn, đạt 76,22% so kế hoạch năm (83.300 tấn) và tăng 6,39% (bằng 3.813,92 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 3.995,85 tấn, tăng 4,3% (bằng 164,68 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 1.176,14 tấn, tăng 59,91% (bằng 440,64 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
2. Sản xuất công nghiệp
Ước thực hiện tháng 10/2023 giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.430,35 tỷ đồng, tăng 4,45% so với tháng trước và tăng 16,36% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành, được 5.914,93 tỷ đồng, tăng 4,59% so với tháng trước và tăng 22,44% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 10/2023 trên 432 triệu kwh, giảm 5,88% so với tháng trước (nguyên nhân là do vào mùa mưa, ưu tiên các nhà máy thủy điện chạy hết công suất, nên nhà máy nhiệt điện dự tính giảm nhẹ so với tháng trước) và tăng 38,46% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp ước tháng 10 tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 31.644,55 tỷ đồng, tăng 12,07% so với cùng kỳ năm trước và đạt 81,18% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 54.444,76 tỷ đồng, tăng 21,51% so với cùng kỳ năm trước, đạt 84,12% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất ước được 11.460,72 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,05% trong toàn ngành và tăng 161,4% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 348 doanh nghiệp, hợp tác xã và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất ước được 33.281,11 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,13% trong toàn ngành và tăng 7,84% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 11 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất ước được 9.702,93 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,82% trong toàn ngành và tăng 1,47% so với cùng kỳ.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 10 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra như: Công ty TNHH Thức ăn Tôm Xanh Minh Phú (sản xuất thức ăn chăn nuôi); Công ty CP Tập đoàn Masan (sản xuất mì ống, bún, gia vị các loại…), Công ty TNHH MTV Sunpro Steel (sản xuất thép),…để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 10/2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 1,20% so với tháng trước và tăng 8,30% so với cùng kỳ. Cụ thể:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 6,97% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước như:
+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,52% so với tháng trước và tăng 0,31% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 38,87% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 0,97% so với tháng trước và tăng 3,8% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô giảm 0,99% so với tháng trước và tăng 17,11% so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền tăng 8,63% so với tháng trước và giảm 3,64% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng nhẹ so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
+ Sản xuất đồ uống tăng 4,33% so với tháng trước và giảm 19,82% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do sản lượng sản xuất bia đóng chai được 6,01 triệu lít, giảm 14,27% so với cùng kỳ (do ý thức của người tham gia giao thông, không sử dụng rượu, bia khi lái xe đã đi vào cuộc sống, nên tình hình tiêu thụ nước uống có cồn giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước); sản lượng sản xuất nước có vị hoa quả được 14,75 triệu lít, tăng 5% so với tháng trước và giảm 22,83% so với cùng kỳ; sản lượng sản xuất nước ngọt được 6,15 triệu lít, tăng 12,23% so với tháng trước và giảm 11,38% so với cùng kỳ,… vì vậy, đã làm ngành sản xuất đồ uống tăng so với tháng trước nhưng giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước.
+ Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, tăng 2,72% so với tháng trước và tăng 12,64% so với cùng kỳ năm trước, giá trị sản xuất của ngành này tập trung chủ yếu do 3 doanh nghiệp sản xuất giày da trên địa bàn tỉnh, đóng góp trên 98% (trên 542 tỷ đồng/tháng), Trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được những hợp đồng sản xuất giày có chất lượng cao tại những thị trường truyền thồng như: Canada; Đức; Hoa Kỳ; Mexico... nên đã làm chỉ số ngành này tăng trở lại so với cùng kỳ.
+ Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy, tăng 2,42% so với tháng trước và tăng 4,47% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Giấy LEE & Man Việt Nam đã kiểm soát tốt nguyên, vật liệu đầu vào của doanh nghiệp trong những tháng vừa qua, nên doanh nghiệp nhận được các hợp đồng lớn từ những thị trường truyền thống như: Thái Lan; Indonesia; Ấn Độ; Hồng Kông,… Vì vậy, doanh nghiệp dự tính sản xuất được 39.190 tấn, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 0,45% so với cùng kỳ.
+ Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu, tăng 1,26% so với tháng trước và tăng 32,43% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Chi nhánh nhà máy dược phẩm DHG tại Hậu Giang sản lượng sản xuất thuốc viên được 377 triệu viên, giảm 1,82% so với tháng trước và tăng 47,45% so với cùng kỳ; thuốc bột/cốm được 76.000 kg, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 26,67% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm ngành sản xuất thuốc, hóa dược liệu tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính 10 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 10,95% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 8,62% của 10 tháng năm 2020 so với cùng kỳ và cao hơn mức tăng 3,63% của 10 tháng năm 2021 so với cùng kỳ nhưng thấp hơn mức tăng 16,26% của 10 tháng năm 2022 so với cùng kỳ, do tháng 6 năm 2022 nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu I hoạt động chính thức nên 10 tháng năm 2022 tăng đột biến so với cùng kỳ). Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng trên 76,65% trong toàn ngành công nghiệp, chỉ tăng 6,79% thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành (thấp hơn mức tăng 13,22% của 10 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do trong những tháng đầu năm một số doanh nghiệp thiếu đơn hàng xuất khẩu, do kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát tăng cao. Tại các nước vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp trong tỉnh, có hiện tượng người dân cắt giảm chi tiêu, khiến hàng tồn kho của doanh nghiệp còn nhiều, dẫn đến giá cá, tôm giảm mạnh từ 20% đến 30% so với thời điểm cuối năm 2022, dù đã giảm giá, nhưng vẫn rất khó ký được các hợp đồng mới. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng thấp hơn chỉ số chung của toàn ngành và thấp hơn mức tăng 10 tháng năm 2022 so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 141,05% (do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức hoạt động ổn định, nên đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ).
- Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,27%. Nguyên nhân là do các công ty cấp nước trên địa bàn tỉnh, đã hoàn thiện và khởi công mới các tuyến đường ống, dẫn nước đến các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh, để phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, được hoạt động liên tục.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh trong 10 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng nước mắm sản xuất được 94,02 triệu lít, tăng 283,47%; sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 303.548 tấn, tăng 5%; nước uống có hương vị hoa quả được 183,89 triệu lít, tăng 4,18%; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 368.566 tấn, tăng 1,04%; sản lượng điện sản xuất được 4.889 triệu kwh, tăng 164,06%,… Ở chiều ngược lại, do những tháng đầu năm 2023 các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thị trường tiêu thụ, cũng như nguồn cung cấp nguyên, vật liệu không ổn định, đã làm sản lượng một số sản phẩm 10 tháng năm 2023 giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 24.956 tấn, giảm 25,61%; sản lượng sản xuất bia đóng chai được 54,05 triệu lít, giảm 28,01%; sản lượng sản xuất giày dép các loại được 13.539 ngàn đôi, giảm 3,49%; …
Nhìn chung, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu phục hồi trong cuối quý III/2023 đến nay và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đặc biệt, tỉnh đang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản có lợi thế cạnh tranh và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như: xay xát; chế biến thủy sản đông lạnh; sản xuất trái cây đóng hộp; chế biến trà mãng cầu; chế biến cá thát lát,… các sản phẩm này có khả năng xuất khẩu và giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng (tính từ ngày 18/9/2023 - 16/10/2023, toàn tỉnh có 111 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (trong đó có 71 doanh nghiệp tư nhân và Công ty, 40 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn đăng ký là 1.417,90 tỷ đồng; có 11 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 03 công ty, tổng vốn là 9,80 tỷ đồng); có 14 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 12 doanh nghiệp và công ty, tổng vốn là 170,40 tỷ đồng).
Lũy kế từ đầu năm đến nay có 724 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (trong đó có 443 Doanh nghiệp và Công ty, còn lại 264 đơn vị trực thuộc) tổng vốn là 3.374,38 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 5,2% về số lượng doanh nghiệp và giảm 28,07% về số vốn điều lệ); có 100 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 188,95 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 15,96 % về số doanh nghiệp và tăng 30,74% về vốn điều lệ); có 183 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 1.258,88 tỷ đồng và có 10 doanh nghiệp hoạt động trở lại.
4. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 13/10/2023, kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2023 là 23.193,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.733 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 15.310 tỷ đồng.
Ước tính tháng 10/2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 1.995,99 tỷ đồng, bằng 101,11% so với tháng trước và bằng 130,37% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 566,24 tỷ đồng, bằng 102,26% so với tháng trước và bằng 156,96% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 159,30 tỷ đồng, bằng 99,49% so với tháng trước và bằng 48,21% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.270,45 tỷ đồng, bằng 100,81% so với tháng trước và bằng 151,29% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 18.539,46 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,17%[2], đạt 79,93% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 4.392,99 tỷ đồng, bằng 170,14% so với cùng kỳ năm trước và đạt 76,63% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.778,31 tỷ đồng, bằng 172,17% so với cùng kỳ năm trước và đạt 82,69% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 12.368,16 tỷ đồng, bằng 96,88% so với cùng kỳ năm trước và đạt 80,78% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán … đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 10/2023 được 959,12 tỷ đồng, luỹ kế được 12.169,15 tỷ đồng, đạt 113,72% dự toán Trung ương, đạt 84,04% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 605,50 tỷ đồng, luỹ kế được 4.684,05 tỷ đồng, đạt 75,94% dự toán Trung ương, đạt 71,86% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 550 tỷ đồng, luỹ kế được 4.199,05 tỷ đồng, đạt 76,35% dự toán Trung ương và đạt 71,78% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 485,00 tỷ đồng, đạt 72,60% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 3.682,67 tỷ đồng, đạt 81,23% dự toán Trung ương, đạt 81,17% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 10/2023 được 927,72 tỷ đồng, luỹ kế được 9.292,35 tỷ đồng, đạt 97,32% dự toán Trung ương giao, đạt 69,79% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
+ Chi xây dựng cơ bản: 536,03 tỷ đồng, luỹ kế được 5.360,29 tỷ đồng, đạt 112,75% dự toán Trung ương giao, đạt 73,15% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Chi thường xuyên: 391,70 tỷ đồng, luỹ kế được 3.916,95 tỷ đồng, đạt 84,07% dự toán Trung ương giao, đạt 67.59% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 30/9/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 22.183 tỷ đồng, tăng trưởng 11,2% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 59,33% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 11.061 tỷ đồng (chiếm 49,86% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 11.122 tỷ đồng (chiếm 50,14% tổng huy động). Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,2%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 3,6-4%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 5,1-5,4%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 5,6-6%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 10/2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 22.315 tỷ đồng, tăng trưởng 11,87% so với cuối năm 2022.
Đến ngày 30/9/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 37.391 tỷ đồng, tăng trưởng 7% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.474 tỷ đồng (chiếm 52,08% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 17.917 tỷ đồng (chiếm 47,92% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay bình quân từ 8,7 - 14%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 10/2023 dư nợ đạt 37.610 tỷ đồng, tăng trưởng 7,62% so với cuối năm 2022.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 9/2023 là 894 tỷ đồng, chiếm 2,39%/tổng dư nợ; nợ xấu là 430 tỷ đồng, chiếm 1,15%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 464 tỷ đồng, chiếm 51,9%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 10/2023, tỷ lệ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ước tính tháng 10/2023, tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ thực hiện được 4.649,37 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 0,74% và so với cùng kỳ năm trước tăng 25,77%. Tuy tổng doanh thu chung có mức giảm nhẹ so với tháng trước nhưng vẫn có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do doanh thu hoạt động các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống (trừ du lịch lữ hành) và một số ngành dịch vụ tiêu dùng khác tính chung có mức doanh thu giảm lần lượt 1,64% và 7,88% so với tháng trước. Riêng hoạt động bán lẻ của các tiểu thương và doanh nghiệp trên địa bàn tiếp tục có đà tăng trưởng ổn định, quy mô doanh thu không quá nhiều biến động khi có tốc độ tăng 0,84% so với tháng trước. Trong tháng, các chuỗi sự kiện lớn cùng với Hội nghị ngành Công Thương các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long tiếp tục được tổ chức, các hoạt động hội chợ về trên địa bàn tỉnh đưa hàng hóa việt chất lượng giá rẻ về với người dân trong bối cảnh kinh tế khá khó khăn, thu nhập bị ảnh hưởng nhằm kích cầu tiêu dùng những tháng cuối năm đưa hoạt động thương mại dịch vụ diễn ra trở nên sôi động hơn. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.438,12 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,84% và so với cùng kỳ năm trước bằng 128,98%. Các nhóm hàng bán lẻ hàng hóa trong tháng hầu hết đều có mức tăng so với tháng trước nhưng ở mức không cao, một số ít ngành vẫn có giá trị giảm so với cùng kỳ do thị trường hàng hóa diễn biến không thuận lợi cho hoạt động giao thương, số lượng công nhân mất việc ở các doanh nghiệp nhà máy làm mức thu nhập của người dân phần nào bị ảnh hưởng nên giảm nhu cầu tiêu dùng. Hầu hết các nhóm hàng chủ yếu đều có mức tăng so với cùng kỳ. Trong đó, các nhóm hàng có mức tăng cao và đóng góp chủ yếu vào tổng doanh thu bán lẻ bao gồm: Nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 35,06%; Vật phẩm giáo dục tăng 19,84%; Đồ dùng dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 33,50%; ô tô tăng 231,03% nhờ vào chính sách kích cầu giảm lệ phí trước bạ cùng các gói khuyến mãi của các cửa hàng kinh doanh; Đá quý và kim loại quý tăng 13,08%; một số nhóm hàng hóa khác tăng 9,17%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 589,81 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 1,64% và so với cùng kỳ năm trước tăng 33,25%. Các sự kiện được tổ chức với quy mô lớn, số lượng đại biểu và người dân tập trung đông nên nhu cầu về lưu trú và ăn uống tại các nhà hàng khách sạn, nhà nghỉ vẫn tiếp tục có doanh thu cao ổn định so với mức bình quân 9 tháng đầu năm nhưng riêng so với tháng trước sẽ có phần giảm nhẹ do các sự kiện được tổ chức trong tháng được dự đoán có phần giảm về quy mô và kém nhộn nhịp hơn so với tháng trước. Trong đó:
+ Ngành lưu trú ước được 23,06 tỷ đồng, so tháng trước giảm 0,2% và so với cùng kỳ tăng 28,23%.
+ Ngành ăn uống ước được 566,75 tỷ đồng, so tháng trước giảm 1,69% và so cùng kỳ năm trước tăng 33,46%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) thực hiện được 621,43 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 7,88% và so với cùng kỳ năm trước tăng 5,62%. Trái với mức tăng của hoạt động bán lẻ, doanh thu các ngành dịch vụ tiêu dùng được dự ước sẽ giảm và chỉ bằng 92,12% so với tháng trước. Do trong tháng số kỳ mở thưởng hoạt động xổ số kiến thiết giảm 01 kỳ so với tháng trước tương đương giảm 16,68% (hoạt động có giá trị doanh thu lớn chiếm tỷ trọng hơn 45% tổng doanh thu dịch vụ).
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 45.772,36 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,96%. Cơ cấu tổng thể các ngành thương mại dịch vụ vẫn ổn định không thay đổi nhiều. Doanh thu bán lẻ vẫn là ngành quan trọng là trụ cột xương sống chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu thương mại và dịch vụ với 74,45%, dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 12%, còn lại dịch vụ tiêu dùng khác chiếm 13,55%.
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 34.078,87 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,97%.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 5.497,62 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 25,87%. Đến nay, hoạt động lưu trú và ăn uống được xem là điểm sáng về tốc độ tăng trưởng khi có tốc độ tăng cao nhất trong cơ cấu tổng thể các ngành thương mại và dịch vụ trên địa bàn. Cụ thể: Ngành lưu trú ước tính được 206,11 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 43,22%; Ngành ăn uống ước tính được 5.291,51 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 25,28%.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 6.195,87 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,37%. Trong đó, quy mô các hoạt động loại hình dịch vụ phục vụ cho cá nhân và gia đình khác (ngành 96) ngày càng gia tăng nhanh về quy mô và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng doanh thu dịch vụ chung so với các ngành dịch vụ khác còn lại. Ước tính 10 tháng ngành này có tốc độ tăng cao nhất so với cùng kỳ khi tăng tới 80,10% trong số các ngành nên góp phần đưa tốc độ tăng chung đạt khá cao so với cùng kỳ năm trước.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 10/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 113.424 nghìn USD so với tháng trước bằng 96,17% và so với cùng kỳ năm trước bằng 53,81%.Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 81.392 nghìn USD, so với tháng trước bằng 103,58% và so với cùng kỳ năm trước bằng 46,01%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 32.032 nghìn USD, so với tháng trước bằng 81,39% và so với cùng kỳ năm trước bằng 94,55%.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 1.033.633 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 98,99% và so với kế hoạch năm đạt 90,64%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 674.621 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 96,66% và so với kế hoạch năm đạt 91,53%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 324.076 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 104,34% và so với kế hoạch năm đạt 89,96%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 229 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 28% và so với kế hoạch năm đạt 25,14%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 34.707 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 99,57% và so với kế hoạch năm đạt 82,38%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Tổng doanh thu vận tải kho bãi tiếp tục giữ vững đà tăng so với tháng trước mặc dù với tốc độ không cao. Các loại hình vận chuyển đường bộ và đường thủy vẫn diễn ra ổn định. Các cơ sở cá thể và doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa và hành khách đường bộ vẫn hoạt động và tạo ra giá trị quy mô lớn gấp 2,75 lần so với khu vực đường thủy. Về tổng quy mô doanh thu vận tải, kho bãi ước tháng 10/2023 thực hiện được 145,99 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,16% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,92%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 81,35 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 99,96% và so với cùng kỳ năm trước bằng 104,26%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 29,54 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 98,75% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,86%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 35,10 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,86% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,20%.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 1.378,43 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,29%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 740,53 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 114,95%. Hoạt động đường bộ là hoạt động đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung của ngành vận tải, kho bãi khi hiện chiếm hơn 50% tổng giá trị doanh thu và đang có mức tăng cao so với cùng kỳ năm 2022.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 302,23 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,78%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 335,66 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 100,12%. Sau các tháng có mức giảm so với cùng kỳ do thị trường chưa kịp hồi phục thì hiện nay tổng giá trị doanh thu qua 10 tháng của dịch vụ kho bãi và hoạt động hỗ trợ vận tải, logistic đã phục hồi và có tốc độ tăng trở lại nhưng ở mức chưa cao.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 10/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 472,94 nghìn tấn hàng hóa các loại (79.639,38 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 98,70% (98,84%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,17% (119,72%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 114,44 nghìn tấn (17.945,57 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 98,38% (98,44%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,31% (104,63%).
- Đường sông thực hiện được 358,51 nghìn tấn (61.693,81 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 98,80% (98,96%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,12% (124,96%).
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 4.818,25 nghìn tấn hàng hóa các loại (786.076,74 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 123,84% (127,91%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 1.151,10 nghìn tấn (183.346,96 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 143,26% (137,36%).
- Đường sông thực hiện được 3.667,15 nghìn tấn (602.729,78 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 118,79% (125,29%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 10/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.417,76 nghìn lượt hành khách (49.168,41 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 102,60% (101,24%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,88% (109,07%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 207,21 nghìn lượt hành khách (42.422,19 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,23% (101,16%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,10% (112,40%).
- Đường sông vận chuyển được 2.210,55 nghìn lượt hành khách (6.746,22 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,73% (101,76%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,28% (91,94%).
Ước thực hiện 10 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 24.284,61 nghìn lượt hành khách (483.802,59 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 102,73% (109,17%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 1.999,79 nghìn lượt hành khách (416.269,04 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 111,22% (110,82%).
- Đường sông vận chuyển được 22.284,82 nghìn lượt hành khách (67.533,55 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 102,03% (99,99%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Toàn ngành có 321 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 88 trường (có 05 trường tư thục); tiểu học có 148 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh. Giáo dục thường xuyên có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Quy mô học sinh năm học 2023-2024: Huy động học sinh mầm non, phổ thông là 156.325/158.100, đạt 98,87%, cụ thể như sau:
- Giáo dục Mầm non:
+ Nhà trẻ: 2.443/2.900, đạt tỉ lệ 82,24%.
+ Mẫu giáo: 22.393/24.700, đạt tỉ lệ 90,66%.
- Giáo dục phổ thông:
+ Tiểu học: 62.281/65.500 đạt tỉ lệ 95,09%.
+ Trung học cơ sở: 48.364/45.550, đạt tỉ lệ 106,17%.
+ Trung học phổ thông: 20.844/19.450, đạt tỉ lệ 107,16%.
Trong tháng, toàn ngành tập trung vào một số công tác chuyên môn sau:
- Hướng dẫn dạy học môn học tiếng dân tộc thiểu số cho học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 3 năm học 2023-2024.
- Hướng dẫn dạy học tiếng Anh theo Chương trình iSmart thông qua môn Toán và Khoa học ở trường tiểu học.
- Phát động Sân chơi "Ý tưởng trẻ thơ" dành cho học sinh tiểu học.
- Triển khai tập huấn online môn Tin học cho giáo viên phổ thông do quỹ Dariu hỗ trợ.
- Thành lập các Hội đồng coi thi lý thuyết và chấm thi thực hành kỳ thi nghề phổ thông năm 2023.
7.2. Văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền an toàn giao thông; tuyên truyền về cải cách hành chính, Ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy (04/10), kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930-20/10/2023),… Kết quả: in và lắp mới 2.211m2 pano, 1.980 cờ các loại, 95 băng rol. Tiếp tục thực hiện các mẫu maket về tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang (01/01/2004 – 01/01/2024); Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với 61 buổi, phục vụ 37.210 lượt người xem, tổ chức 50 lượt phóng thanh cổ động; Tổ chức biểu diễn phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương với 04 suất diễn, phục vụ 2.480 lượt người xem; Phòng Phát hành phim và chiếu bóng thực hiện ghi hình các sự kiện của ngành, tổ chức chiếu phim lưu động được 08 buổi, phục vụ 2.480 lượt người xem.
Hoạt động thư viện: Phối hợp cùng Sở Thông Tin và Truyền thông, Sở Giáo dục và Đào tạo trao tặng sách và thiết bị đọc sách cho 03 điểm trường học vùng sâu, vùng sa trong tỉnh: Trường Tiểu học& Trung học cơ sở Phương Ninh, Trường THCS Vĩnh Trung, Trường THCS Hoàng Diệu. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện, trong tháng 10/2023 phục vụ 19.287 lượt người truy cập tra cứu (nâng tổng số lên 142.474 lượt) và đọc sách với 38.574 lượt sách (nâng tổng số lên 284.948 lượt). Trong tháng cấp 359 thẻ Thư viện (nâng tổng số lên 2.409 thẻ).
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức triển lãm 05 cuộc phục vụ Hội nghị khuyến công các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam lần thứ IX năm 2023; Đại Hội Công đoàn tỉnh Hậu Giang lần thứ XI, nhiệm kỳ 2023-2028;…với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng An ninh tỉnh Hậu Giang năm 2022; Bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”. Sưu tầm mua hiện vật bổ sung kho bảo tàng và trưng bày tại các di tích. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 9.890 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Thông báo kết quả thi đấu môn Việt dã, môn Vovinam Đại hội Thể thao đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX - Hậu Giang năm 2023. Đến thời điểm hiện tại, đã tổ chức xong 26/27 môn tại Đại hội Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX – Hậu Giang năm 2023, trong đó 07 môn tổ chức tại Hậu Giang: Kickboxing, Boxing, Judo, Quần vợt, Kurash, Việt dã, Vovinam; các môn còn được tổ chức tại các tỉnh trong Khu vực ĐBSCL. Hậu Giang tham gia 18 môn, đạt 60 Huy chương Vàng, 59 Huy chương Bạc, 106 Huy chương Đồng đang tạm xếp hạng 3/13 đoàn tham gia.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.472(15.220)/15.000 lao động, đạt 101,47% kế hoạch năm. Trong đó, đã hỗ trợ đưa 48(562)/547 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài theo hợp đồng, đạt 103,8% kế hoạch năm (trong đó có 214 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc). Tổ chức 46(64) phiên giao dịch việc làm với 3.120 người lao động tham dự; cấp phát chi phí hỗ trợ ban đầu không hoàn lại
Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp: Trong tháng, tuyển sinh học nghề được 1.346(8.469)/6.500 người, đạt 130,29% kế hoạch năm. Trong đó: Trình độ cao đẳng 86(241) người; trung cấp 110(374), sơ cấp và dưới 03 tháng là 1.150(7.809) người.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 158(2.058)hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 166(2.050)hồ sơ. Trong đó, đạt 154(1.924) hồ sơ, không đạt 12(126) hồ sơ. Còn 18 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Phối hợp với Kiểm toán nhà nước khu vực V bàn giao 01 căn nhà tình nghĩa cho ông Nguyễn Văn Trợ là thương binh tỷ lệ 45% tại huyện Long Mỹ.
Công tác Bảo trợ xã hội - Giảm nghèo: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 39.542 (385.065 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 22.227,12 (212.406,14) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 259(2.144) trường hợp với số tiền 1.864,8 (15.436,8) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 04(69) trường hợp với số tiền 66,4(1.225) triệu đồng.
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội: Trong tháng, toàn tỉnh đã tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 56 (521) cuộc với 3.061 (21.917) lượt người tham dự; phát thanh được 38 (362) cuộc với 213 (2.273) phút tuyên truyền về tác hại của các loại tệ nạn xã hội. Ban Chỉ đạo 138 các cấp đã tổ chức kiểm tra được 17(188) cuộc, với 30(442) lượt cơ sở, qua kiểm tra cho cam kết, nhắc nhở 02(60) cơ sở. Hiện, tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 896 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 146 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 22 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tăng 05 ca so với tháng trước, cộng dồn là 570 ca, giảm 169 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 268 ca mắc mới, tăng 102 ca so với tháng trước, cộng dồn là 870 ca, tăng 424 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút trong tháng không có ca mắc mới, cộng dồn là 05 ca, tăng 05 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 811 trẻ, cộng dồn là 8.819 trẻ, đạt 83,7%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 465 trẻ, cộng dồn 8.694 trẻ, đạt 77,7%; tiêm VNNB(3) trong tháng là 925 trẻ, cộng dồn 7.645 trẻ, đạt 68,3%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 862 thai phụ, cộng dồn là 8.440 thai phụ, đạt 80,1%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 10 ca, cộng dồn là 73 ca (tăng 26 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.014 ca (số đang quản lý 1.065); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 62 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.033 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 903 lượt, cộng dồn là 7.245 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 10/2023: Tổng số lần khám trong tháng là 149.587 lượt, cộng dồn là 1.427.036 lượt; đạt 103,78% kế hoạch, tăng 28,30% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú trong tháng là 9.464 lượt, cộng dồn là 94.852 lượt; đạt 71% kế hoạch, tăng 29,55% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,04 ngày, tăng 1,15 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn (các loại), ngộ độc, chấn thương là 7.845 trường hợp, tăng 3.516 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 10/2023, toàn tỉnh xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông, làm chết 06 người, bị thương 20 người (trong đó có 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm bị thương 02 người). So với tháng 9/2023, số vụ tăng 01 vụ, số người chết tương đương, số người bị thương giảm 02 người. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 13 vụ, số người chết tăng 01 người, số người bị thương tăng 15 người. Nguyên nhân do đi không đúng phần đường 02 vụ; không chú ý quan sát 01 vụ; chuyển hướng không đúng quy định 01 vụ; người đi bộ 01 vụ; không giữ khoảng cách 01 vụ; không nhường đường 01 vụ; lỗi khác 03 vụ và chưa rõ 11 vụ.
Tính chung 10 tháng năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/10/2023), toàn tỉnh xảy ra 149 vụ tai nạn giao thông, làm chết 93 người, bị thương 91 người. So cùng kỳ 2022, số vụ tăng 50 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương tăng 73 người. Trong đó có 02 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm chết 01 người, bị thương 02 người; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 01 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương tăng 02 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng, không xảy ra thiên tai hay phát sinh số liệu vi phạm môi trường. Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 1.125 triệu đồng.
[1] Nguyên nhân tăng do địa phương vận động người dân chuyển đổi diện tích lúa vụ 3 kém hiệu quả sang nuôi thủy sản, phát triển thêm khoảng 2.000 ha so với chỉ tiêu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao năm 2023, nâng tổng chỉ tiêu phát triển diện tích nuôi thủy sản năm 2023 lên 11.100 ha.
[2] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh để lập thành tích chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang (01/01/2004 - 01/01/2024). Vốn đầu tư năm 2023 được phân bổ tăng 14,33% (23.193,50/20.286,62 tỷ đồng) so với năm 2022. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian. Các chủ đầu tư chủ động trình cơ quan có thẩm quyền đề nghị chuyển nguồn vốn từ các dự án chưa có khối lượng giải ngân sang các dự án có nhu cầu bổ sung vốn trong năm 2023./.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang