Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12, quý IV và năm 2024 tỉnh Hậu Giang

Kinh tế thế giới trong năm 2024 tiếp tục chứng kiến những bất ổn khi các cuộc xung đột vũ trang kéo dài và leo thang căng thẳng, căng thẳng địa chính trị và chiến tranh thương mại cộng thêm thiên tai nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và đạt được mức tăng trưởng cao hơn so với dự báo trước đó. Trong bối cảnh thuận lợi này, Việt Nam đạt được mức tăng trưởng GDP cao, phản ánh sự phục hồi ổn định của tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ. Xét trên bình diện cả nước, xuất khẩu ghi nhận tốc độ tăng trưởng ổn định, trong khi tiêu dùng của người dân và đầu tư của các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thực sự phục hồi mạnh mẽ so với xu hướng trước Đại dịch COVID-19.

Trong tỉnh, ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã quyết liệt triển khai Nghị quyết số 29/NQ-HĐND ngày 08/12/2023 của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024; Kế hoạch số 13/KH-UBND ngày 19/01/2024 về thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, Kế hoạch số 12/KH-UBND ngày 19/01/2024 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, chú trọng phát triển sản xuất kinh doanh…đã đem lại kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho tỉnh. Kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục có những chuyển biến tích cực, an ninh chính chính trị, an toàn xã hội được giữ vững, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ổn định và được nâng lên. Kết quả cụ thể các ngành, lĩnh vực năm 2024 như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV ước tính tăng 10,95% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,77%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 21,45%, trong đó công nghiệp tăng 22,15%; khu vực dịch vụ tăng 8,11%, đóng góp 2,99 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,89%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV tăng 0,77%, đóng góp 0,15 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 21,45%, đóng góp 7,74 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP, trong đó công nghiệp tăng 22,15%, đóng góp 6,86 điểm phần trăm. Một số ngành công nghiệp tăng cao, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của tỉnh như: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,10%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 37,93%, đóng góp 3,71 điểm phần trăm; cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,47%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 17,15%, đóng góp 0,88 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

Khu vực dịch vụ tăng 8,11%, đóng góp 2,99 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng cao, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của tỉnh như: Bán buôn và bán lẻ tăng 9,68%, đóng góp 0,56 điểm phần trăm tăng trưởng GRDP; Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,81%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm tăng trưởng GRDP … Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý IV ước tính tăng 0,89%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm tăng trưởng GRDP của tỉnh.

Tính chung cả năm 2024 tăng 8,76% so với năm trước (quý I tăng 6,83%; quý II tăng 9,78%; quý III tăng 7,91%; quý IV tăng 10,95%), xếp thứ hai vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 14,63% và 10,71% của năm 2022 và 2023 trong giai đoạn 2020-2024[1].

Trong mức tăng chung của toàn tỉnh, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,38% (quý I tăng 3,65%; quý II tăng 5,58%; quý III tăng 3,91%; quý IV tăng 0,77%), đóng góp 0,79 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 16,57% (quý I tăng 10,99%; quý II tăng 17,23%; quý III tăng 15,39%; quý IV tăng 21,45%), đóng góp 5,57 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP, trong đó ngành công nghiệp tăng 16,63%, đóng góp cao nhất với mức 4,80 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng cao, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của tỉnh như: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,30%, đóng góp 2,39 điểm phần trăm, Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 22,83%, đóng góp 2,37 điểm phần trăm, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,08%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 16,15%, đóng góp 0,77 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

Khu vực dịch vụ tăng 6,68%, đóng góp 2,37 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,42%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP.

GRDP bình quân đầu người 93,78 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế của tỉnh trong năm 2024 tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực giữa các khu vực kinh tế so với cùng kỳ, Cụ thể: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 21,41%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng 39,89%, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 32,00% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,70% (Năm 2023 lần lượt là: 21,54%; 38,02%; 33,16%; 7,28%).

[1] Tốc độ tăng GRDP các năm 2020-2024 lần lượt là 2,47%; 3,60%; 14,63%; 10,71%; 8,76%.

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Thu, chi ngân sách nhà nước

Ước tổng thu ngân sách địa phương năm 2024 được 16.515 tỷ đồng, vượt 45,99% dự toán Trung ương, đạt 102,19% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh, tăng 19,91% so với cùng kỳ. Trong đó:

- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn là 7.520 tỷ đồng, đạt 119,67% dự toán Trung ương, đạt 100,27% dự toán Hội đồng nhân dân, tăng 23,62% so với cùng kỳ,bao gồm:

+ Thu nội địa là 7.017 tỷ đồng, đạt 121,38% dự toán Trung ương, đạt 103,19% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh, tăng 27,24% so với cùng kỳ.

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 503 tỷ đồng, đạt 71,86% dự toán HĐND tỉnh, giảm 11,54% so với cùng kỳ

- Thu ngân sách Trung ương trợ cấp là 6.262 tỷ đồng đạt 105,18% dự toán Trung ương giao, đạt 100% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

Có 11/14 nguồn thu đạt và vượt tiến độ so với dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm: Thu từ doanh nghiệp nhà nước; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thu thuế thu nhập cá nhân; thu lệ phí trước bạ; thu từ phí, lệ phí; thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; thu tiền sử dụng đất; thu khác ngân sách; thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; thu cổ tức và lợi nhuận sau thuế. Còn 03/14 nguồn thu chưa đạt tiến độ so với dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm: Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh; thu tiền cho thuê đất; thu thuế bảo vệ môi trường.

Ước tổng chi ngân sách địa phương năm 2024 là 16.503 tỷ đồng, vượt 45,89% dự toán Trung ương giao, đạt 102,19% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, tăng 20,34% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 9.670 tỷ đồng, đạt 103,16% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh; chi thường xuyên 6.403 tỷ đồng, đạt 100% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.

2.2. Tín dụng ngân hàng

Trong năm, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh luôn bám sát các giải pháp về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2024 theo định hướng của NHNN Việt Nam; các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế theo chỉ đạo của Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ; các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nhất là đảm bảo các nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, ngành, lĩnh vực, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn để phục hồi, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Ước đến cuối năm 2024, một số chỉ tiêu đạt cụ thể như sau:

Hoạt động huy động vốn: Đến ngày 31/11/2024, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 24.634 tỷ đồng, tăng 8,40% so với cuối năm 2023. Vốn huy động đáp ứng được 57,08% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 13.890 tỷ đồng (chiếm 56,39% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.744 tỷ đồng (chiếm 43,61% tổng huy động). Ước thực hiện đến cuối tháng 12 năm 2024, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 25.000 tỷ đồng, tăng trưởng 10,01% so với cuối năm 2023.

Hoạt động tín dụng: Đến ngày 31/11/2024, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 43.165 tỷ đồng, tăng trưởng 7,89% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 22.365 tỷ đồng (chiếm 51,81% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 20.800 tỷ đồng (chiếm 48,19% tổng dư nợ). Ước thực hiện đến cuối tháng 12 năm 2024 dư nợ đạt 43.700 tỷ đồng, tăng trưởng 9,23% so với cuối năm 2023.

Tình hình thực hiện lãi suất: Các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định của NHNN về lãi suất huy động. Biểu lãi suất được niêm yết chi tiết công khai tại quầy giao dịch, mức lãi suất cao nhất áp dụng không vượt quy định NHNN.

Lãi suất huy động: Lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 01 tháng phổ biến ở mức 0,5%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 2,8-3,6%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 4,3-4,9%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 4,9-5,4%/năm.

Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm (ngắn hạn), 7,5% -10% (trung và dài hạn); các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân từ 6,5-10%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn bình quân từ 8,5-10,5%/năm.

Chất lượng tín dụng: Tiếp tục theo dõi, giám sát chặt chẽ diễn biến nợ xấu của các TCTD trên địa bàn; tăng cường xử lý nợ nấu, áp dụng triệt để các giải pháp xử lý nợ xấu; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới. Đến 30/11/2024 nợ xấu toàn địa bàn là 625 tỷ đồng, chiếm 1,45%/tổng dư nợ (giảm 0,5 điểm phần trăm so với kỳ 31/10/2024). Dự báo đến cuối tháng 12/2024, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.   

3. Đầu tư và xây dựng

3.1. Vốn đầu tư

Với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương nỗ lực tập trung đẩy mạnh triển khai thực hiện giải ngân vốn đầu tư công vào những tháng cuối năm 2024. Từ đó, tiến độ nhiều công trình, dự án trọng điểm được đẩy nhanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2024 là 26.159 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau: Vốn ngân sách nhà nước 6.988 tỷ đồng; Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 5.201 tỷ đồng; các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 13.970 tỷ đồng.

Ước tính quý IV/2024, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 7.012 tỷ đồng, so với quý trước tăng 6,60% và tăng 13,89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách nhà n¬ước ước đạt 3.143 tỷ đồng, chiếm 44,83% tổng vốn đầu tư, so với quý trước tăng 17,91% và tăng 18,02% so với cùng kỳ năm trước; vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 3.748 tỷ đồng chiếm 53,46% tổng vốn đầu tư, so với quý trước tăng 0,87% và tăng 12,91% so cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 121 tỷ đồng, chiếm 1,72% tổng vốn đầu tư, so với quý trước bằng 61,49% và bằng 69,36% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý IV ước tính đạt 5.339 tỷ đồng, chiếm 76,14% tổng vốn đầu tư và tăng 38,21% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 607 tỷ đồng, chiếm 8,66% và bằng 58,58% so với cùng kỳ năm trước; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 1.029 tỷ đồng, chiếm 14,68% và bằng 99,53% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động dưới dạng hiện vật bằng vốn tự có đạt 37 tỷ đồng, chiếm 0,53% và bằng 16,55% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện cả năm 2024 được 25.800 tỷ đồng, tăng 13,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước ước đạt 11.566 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44,83% trong tổng vốn, tăng 25,61% so với cùng kỳ năm trước; vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 13.199 tỷ đồng, chiếm 51,16% trong tổng vốn, tăng 1,26% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 1.034 tỷ đồng, chiếm 4,01% trong tổng vốn, tăng 126,44% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2024 ước tính đạt 18.904 tỷ đồng, chiếm 73,27% tổng vốn đầu tư và tăng 15,53% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 3.683 tỷ đồng, chiếm 14,28% và tăng 50,29% so với cùng kỳ năm 2023; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 3.031 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,75% và bằng 99,84% so với cùng kỳ; vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động dưới dạng hiện vật bằng vốn tự có đạt 182 tỷ đồng, chiếm 0,71% và bằng 21,44% so với cùng kỳ.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng 12/2024 ước tính đạt 755 tỷ đồng, tăng 6,42% so với tháng trước tăng 41,41% % so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, vốn đầu tư từ NSNN do địa phương quản lý thực hiện được 6.778 tỷ đồng, tăng 28,12% so với cùng kỳ năm trước và đạt 97% so với kế hoạch năm, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện được 5.830 tỷ đồng, tăng 34,93% và đạt 96,80% so với kế hoạch năm; Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện được 948 tỷ đồng, bằng 97,79% so với cùng kỳ năm tr¬ước và đạt 98,26% so với kế hoạch năm.

Về thu hút đầu tư trong nước: Từ đầu năm đến nay, tỉnh cấp mới 05 chủ trương đầu tư ngoài khu công nghiệp; thu hồi 11 chủ trương đầu tư. Đến nay, toàn tỉnh có 322 dự án đầu tư, trong đó: có 257 dự án ngoài khu, cụm công nghiệp và 62 dự án trong khu, cụm công nghiệp, 03  dự án  trong  Khu Nông  nghiệp ứng  dụng công nghệ cao Hậu Giang.

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tỉnh cấp mới 01 dự án, thu hồi 01 chủ trương đầu tư. Lũy kế từ trước đến nay có 25 dự án FDI, trong đó, Khu công nghiệp là 5 dự án, ngoài khu công nghiệp 20 dự án.

Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn tỉnh:

Dự án thành phần 3 thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1: Tổng mức đầu tư: 9.602 tỷ đồng; nguồn vốn NSTW: 8.778 tỷ đồng, NSĐP: 824 tỷ đồng, thời gian thực hiện dự án 2022-2027; ước tính tổng khối lượng thực hiện từ đầu năm đến nay là 2.229 tỷ đồng, đạt 83,53% kế hoạch năm.

Dự án Đường tỉnh 926B, tỉnh Hậu Giang kết nối với tuyến Quản lộ Phụng Hiệp, tỉnh Sóc Trăng: Tổng mức đầu tư: 1.569 tỷ đồng; nguồn vốn: NSTW & NSĐP. Chiều dài tuyến 30,342 km; thời gian thực hiện dự án: 2021-2026; ước tính tổng khối lượng hoàn thành từ đầu năm đến nay là 281 tỷ đồng, đạt 95,27% kế hoạch năm.

Đường tỉnh 931 (đoạn từ xã Vĩnh Viễn đến cầu Xẻo Vẹt): Tổng mức đầu tư: 405 tỷ đồng; nguồn vốn: NSTW & NSĐP. Chiều dài tuyến là 9,47Km; thời gian thực hiện dự án: 2021-2025; ước tính tổng khối lượng hoàn thành từ đầu năm đến nay là 66.785 triệu đồng, đạt 99,97% kế hoạch năm.

Dự án Phát triển đô thị xanh thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang: Tổng mức đầu tư là 1.211 tỷ đồng; thời gian thực hiện dự án: 2023-2026; ước tính khối lượng thực hiện từ đầu năm 2024 đến nay là 41 tỷ triệu đồng, 90% kế hoạch năm.

Ngoài những dự án nêu trên, tỉnh còn một số dự án trọng điểm đã được phê duyệt, đang trong giai đoạn chuẩn bị và hoàn thiện thủ tục ban đầu sẽ khởi công trong thời gian tới, như: dự án Đường Nguyễn Chí Thanh, dự án Nâng cấp mở rộng tuyến nối Cần Thơ - Hậu Giang (Quốc lộ 61C), dự án Đường nối thị trấn Ngã Sáu đến đường Nam Sông Hậu, dự án Khu tái định cư phường IV, Thành phố Vị Thanh.

3.2. Xây dựng

Ước tính giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá so sánh 2010) quý IV/2024 được 2.521 tỷ đồng, tăng 6,1% so với quý trước và tăng 24,92% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá hiện hành được 4.202 tỷ đồng, tăng 5,89% so với quý trước và tăng 24,47% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

Công trình nhà ở được 1.333 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,72% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 16,75% so quý trước và giảm 24,94% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do tình hình giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao (giá cát xây dựng vẫn ở mức cao) và mưa nhiều, nên tiến độ xây dựng một số công trình nhà ở xã hội triển khai chậm tiến độ so với kế hoạch của dự án đã đề ra… Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất công trình nhà ở giảm so với cùng kỳ năm trước.

Công trình nhà không để ở được 371 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 8,84% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 12,89% so với quý trước và tăng 20,85% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do hiện nay đang là mùa mưa, nên các công trình nhà không để ở, chỉ đầu tư sửa chữa nhỏ một số hạng mục của công trình… Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở giảm so với quý trước.

Công trình kỹ thuật dân dụng được 2.191 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 52,14% trong tổng gía trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 5,16% so với quý trước và tăng 87,52% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 2 tuyến cao tốc đi qua và một số dự án xây dựng mở rộng các tuyến lộ về trung tâm các huyện, thị xã, thành phố như: Xây dựng đường tỉnh 931, tổng mức đầu tư gói thầu 75 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 52,51% giá trị công trình; xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 95,5 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 60,58% khối lượng công trình; xây dựng đường tỉnh 929, tổng mức đầu tư gói thầu 150 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 24 tỷ đồng, công dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 60,22% khối lượng công trình; công trình xây dựng đường 926B, tổng mức đầu tư gói thầu 586 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 76 tỷ đồng, công dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 27,05% khối lượng công trình…

Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 307 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,3% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 3,16% so với quý trước và tăng 146,42% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá so sánh 2010) cả năm 2024 theo giá so sánh 2010 được 8.588 tỷ đồng, tăng 22,06% so với cùng kỳ năm trước và đạt 109,36% so với kịch bản tăng trưởng cả năm 2024 của tỉnh đã đề ra. Tính theo giá hiện hành được 14.357 tỷ đồng, tăng 22,61% so với cùng kỳ năm trước và đạt 107,55% so với kịch bản tăng trưởng cả năm 2024 của tỉnh đã đề ra.

Hiện nay, giá trị xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu được thực hiện tập trung vào các hạng mục công trình nâng cấp, mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến lộ nông thôn và các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh. Riêng, một số công trình có mức đầu tư lớn hầu hết được các đơn vị thầu ngoài tỉnh thi công. Do vậy, để giúp ngành xây dựng phát triển và tiếp tục nâng cao giá trị sản xuất trong thời gian tới kiến nghị các ngành chức năng, các cấp, các ngành có kế hoạch chỉ đạo tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị thi công hoàn thành các hạn mục công trình theo đúng tiến độ đề ra

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Trong tháng, có 142 doanh nghiệp đăng ký mới, tăng 65% số lượng doanh nghiệp đăng ký so với tháng trước; tổng số vốn doanh nghiệp đăng ký mới 822 tỷ đồng, tăng 129% số vốn đăng ký so với tháng trước; có 27 hồ sơ đăng ký giải thể, tăng 237% số lượng doanh nghiệp giải thể (trong đó có 4 hồ sơ doanh nghiệp; chấm dứt hoạt động 23 Đơn vị trực thuộc), tổng vốn 43,3 tỷ đồng; có 15 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động.

Lũy kế từ đầu năm đến nay có 1.101 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 9% về số lượng doanh nghiệp so với cùng kỳ; tổng số vốn 5.508 tỷ đồng, tăng 18% về số vốn so với cùng kỳ; có 237 hồ sơ đăng ký giải thể, tăng 12% số doanh nghiệp so với cùng kỳ; có 271 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn 329 tỷ đồng.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 287 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, trong quý IV/2024 cho thấy: Có 52,50% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV tốt hơn quý III; 35% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 12,50% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Những tháng đầu năm 2025, do nhiều ngày làm việc trùng với kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán, hoạt động xuất nhập khẩu chưa phục hồi ngay trong thời gian tới, sản xuất kinh doanh giảm do mức tiêu thụ hàng hóa nội địa chậm lại, dự báo xu thế kinh doanh trong quý I/2025 như sau: Có 60% số doanh nghiệp nhận định xu hướng quý I/2025 sẽ tiếp tục tốt hơn so với quý IV/2024; 25% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 15% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Vì vậy, theo nhận định của doanh nghiệp thì trong quý tiếp theo, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước tiếp tục tăng trưởng, nguồn cung nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động sẵn có tại địa phương, cộng thêm các tuyến đường cao tốc đang đầu tư xây dựng đi qua địa bàn tỉnh… đó là những tiềm năng, thế mạnh thúc đẩy công nghiệp Hậu Giang phát triển ổn định, bền vững trong các năm tiếp theo.

5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Ngành nông nghiệp, nông thôn năm 2024 trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp giảm mạnh để xây dựng các tuyến đường cao tốc và các khu, cụm công nghiệp, đô thị; thời tiết diễn biến phức tạp, những tháng đầu năm nắng nóng gay gắt, hạn mặn xâm nhập, đồng thời tình hình mưa bão và dịch bệnh đe dọa đến những vùng sản xuất. Trong bối cảnh đó, Ngành luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Tỉnh ủy, HĐND, UBND Tỉnh, sự hỗ trợ của các cấp, các ngành và địa phương; sự vượt khó, sáng tạo của doanh nghiệp, hợp tác xã, bà con nông dân và sự đồng hành của các cơ quan truyền thông, góp phần thúc đẩy tiến trình chuyển đổi tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; duy trì đà tăng trưởng khu vực nông, lâm, thủy sản, góp phần vào tăng trưởng, phát triển kinh tế của tỉnh.

5.1. Nông nghiệp

Sản xuất lúa: Diện tích gieo trồng lúa năm 2024 trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 176.317 ha, giảm 0,86% (bằng 1.522 ha[2]) so với cùng kỳ. Trong đó, lúa Đông Xuân 74.392 ha, giảm 1,47% so với cùng kỳ (bằng 1.109 ha); lúa Hè Thu 74.185 ha, giảm 1,36% (bằng 1.022 ha); lúa Thu Đông 27.740 ha, tăng 2,24%. Năng suất lúa cả năm ước đạt 66,04 tạ/ha, giảm 0,83% so với năm 2023 (lúa Đông xuân đạt 77,61 tạ/ha, tăng 0,10%; lúa Hè Thu đạt 60,04 tạ/ha, giảm 0,53%; lúa Thu Đông năng suất sơ bộ đạt 53,97 tạ/ha, giảm 0,63%). Sản lượng lúa cả năm ước đạt 1.164.440 tấn, giảm 1,68% so với cùng kỳ (lúa Đông Xuân đạt 577.358 tấn, giảm 1,37%; lúa Hè Thu đạt 445.406 tấn, giảm 1,88%; lúa Thu đông đạt 150.573 tấn, tăng 2,19%).

Cây hàng năm khác: Năm 2024, diện tích trồng ngô ước đạt 2.494 ha, giảm 5,12% so cùng kỳ năm trước; năng suất đạt 59,76 tạ/ha, giảm 1,15% (bằng 0,69 tạ/ha); sản lượng ước được 14.734 tấn, giảm 6,21% (bằng 976 tấn); diện tích trồng mía niên vụ 2022-2023 ước đạt 3.216 ha tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 2,12%; sản lượng đạt 321.737 tấn, giảm 1,70%. Nguyên nhân diện tích và sản lượng giảm do chuyển đổi sang trồng cây rau màu vàs cây ăn trái. Cây rau: diện tích ước đạt 24.173 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 3,73% (bằng 938 ha); Ước sản lượng được 352.359 tấn, tăng 2,79% (bằng 9.564 tấn).

Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm ước đạt 48.841 ha, tăng 1,70%, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 46.367 ha, tăng 1,64%; cây công nghiệp lâu năm ước đạt 2.474 ha, tăng 2,72%. Diện tích, sản lượng cây ăn quả tăng cao cho lĩnh vực nông nghiệp có mức tăng trưởng khá, một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu: Cây dứa (khóm) diện tích ước đạt 3.332,3 ha, tăng 3,62% (bằng 116,55 ha) so với cùng kỳ, sản lượng sơ bộ cả năm 49.394,6 tấn, tăng 5,05%; cây mít diện tích ước đạt 10.163,89 ha, tăng 1,11%, sản lượng sơ bộ cả năm được 139.792,6 tấn, tăng 5,05% (bằng 12.187,29 tấn); cây bưởi diện tích ước đạt 1.705,03 ha, tăng 0,47% (bằng 8,03 ha), sản lượng sơ bộ cả năm được 20.882,77 tấn, tăng 7,52% (bằng 1.460,04 tấn) do diện tích cho trái thu hoạch tăng khá; cây chanh không hạt diện tích ước đạt 2.970,66 ha, tăng 3,17%, sản lượng sơ bộ cả năm được 31.657,51 tấn, tăng 2,90% (bằng 893,68 tấn); cây mãng cầu diện tích ước đạt 707,13 ha, giảm 0,87%, sản lượng sơ bộ năm được 9.255,1 tấn, tăng 8,64% (bằng 736,15 tấn) do năng suất được cải thiện, người dân ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất.

Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi năm 2024 phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát tốt, giá heo hơi có chiều hướng tăng, giá thức ăn chăn nuôi đã hạ nhiệt, là cơ hội để các hộ chăn nuôi tái đàn, mở rộng quy mô sản xuất. Thực hiện tốt công tác tiêu độc khử trùng và tiêm phòng dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm nên dịch bệnh được kiểm soát tốt, không gây thiệt hại lớn, tổng đàn vật nuôi giữ ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu thực phẩm của người dân. Đàn trâu ước được 1.202 con, giảm 3,76% so với cùng kỳ; đàn bò ước được 4.557 con, tăng 5,68%; đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ) ước được 146.226 con, tăng 0,12%, trong đó heo thịt 103.035 con, tăng 0,07%; đàn gia cầm ước được 4.563 ngàn con, tăng 1,18%, trong đó đàn gà 2.078,33 ngàn con, tăng 6,61% % (bằng 128,86 ngàn con). Tính chung cả năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước được 140 tấn, giảm 4,18% so với cùng kỳ; thịt bò 250 tấn, tăng 5,66%; thịt lợn 23.775 tấn, tăng 4,97%; thịt gia cầm 16.344 tấn, tăng 5,26%; sản lượng trứng gia cầm ước được 178,9 triệu quả, tăng 5,97% .

5.2. Lâm nghiệp và thủy sản

Lâm nghiệp: Tình hình Lâm nghiệp, tỉnh tiếp tục triển khai các kế hoạch, hoạt động trồng cây phân tán, trồng rừng, duy trì ổn định độ che phủ của rừng và cây phân tán đến năm 2025. Phối hợp Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp nghiên cứu trồng cây phân tán trên Hồ nước ngọt phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Góp phần giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn chế xói mòn đất. Chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh.

Trong tháng 12/2024, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 248 m3, tăng 13,15% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi khai thác đạt 1.993 ste, tăng 1,27%. Tính chung năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung được 0,45 nghìn ha, tăng 1,11% so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.656,46 ngàn cây, tăng 2,95%; sản lượng gỗ khai thác sơ bộ khoảng 16.625 m3, tăng 5,25%; sản lượng củi khai thác được 71.336 ste, tăng 1,02% so với cùng kỳ.

Thủy sản: Diện tích nuôi thủy sản năm 2024 ước đạt 13.147,78 ha (chủ yếu là diện tích nuôi cá), tăng 5,12% (bằng 640,56 ha) so với năm trước. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 12.924,25 ha, tăng 5,03% (bằng 619,11 ha), trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 108,77 ha, tăng 27,63% (bằng 23,55 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 116,72 ha, tăng 19,65% (bằng 19,17 ha); diện tích nuôi thủy sản khác được 106,81 ha, tăng 2,18%. Thể tích nuôi lươn được 28.564 m3 tăng 29,27% (bằng 6.467 m3) so cùng kỳ.

Sản lượng thủy sản tháng 12/2024 ước đạt 5.422 tấn (chủ yếu là cá), tăng 6,56% (bằng 333,9 tấn) so với cùng kỳ, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 5.225 tấn, tăng 6,49%; thủy sản khai thác 197 tấn, tăng 8,40%. Tính chung cả năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 84.697,38 tấn, tăng 7,12% bằng 5.632,11 tấn) so với cùng kỳ. Thủy sản nuôi trồng đạt 82.063,53 tấn, tăng 7,24% (bằng 5.537,82 tấn), trong đó, sản lượng cá thát lát thu hoạch được 4.658,08 tấn, tăng 9,47% (bằng 402,77 tấn); sản lượng lươn thu hoạch được 2.592,95 tấn, tăng 24,91% (bằng 517,07 tấn); thủy sản khai thác đạt 2.633,85 tấn, tăng 3,71% % (bằng 94,30 tấn).

6. Sản xuất công nghiệp

Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2024 tiếp tục ổn định, là động lực lớn nhất trong tăng trưởng của tỉnh. Một số doanh nghiệp mở rộng quy mô, chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,53%, trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,71%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 23,50%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,66%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 12/2024 ước tính tăng 1,86% so với tháng trước và tăng 17,86% so với cùng kỳ, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,70% so với tháng trước và tăng 16,10% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 3,85% so với tháng trước và tăng 44,70% so với cùng kỳ; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,12% so với tháng trước và tăng 6,05% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính quý IV/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 0,85% so với quý trước và tăng 15,36% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành chế biến, chế tạo giảm 0,3% so với quý trước và tăng 13,39% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành tăng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,01%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 51,29%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,81%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,17%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,34%.

Tính chung cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp, tăng 11,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,71%; ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 23,50%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,66%. Trong năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng khá so với năm trước: ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,41%; ngành Sản xuất đồ uống tăng 7,29%; ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 55,82%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 19,26%. Tuy nhiên, một số ngành chế biến, chế tạo chỉ số IIP giảm so với năm trước: Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 14,31%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 9,08%; Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 4,85%.

Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2024 tăng 12,82% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung cả năm 2024 chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 17,42% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 22,39%; xay xát và sản xuất bột thô tăng 20,66%; sản xuất đồ uống tăng 15,02%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 54,96%... Ở chiều ngược lại một số nhóm hàng hóa có chỉ số tiêu thụ giảm nhẹ so với cùng kỳ: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 6,49%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 0,63%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 85,52% do tính chất mùa vụ hoặc ảnh hưởng thời tiết nhưng tỷ trọng của các ngành này không đáng kể trong toàn ngành. Vì vậy, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tăng so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thời điểm cuối năm 2024 giảm 38,52% so với năm 2023, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản giảm 27,56%; chế biến và bảo quản rau quả giảm 9,85%; sản xuất sản phẩm từ plastic giảm 10,92%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 74,10%... Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Sản xuất đồ uống tăng 144,79%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 45,80%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,46%. Nhìn chung, tình hình sản xuất ngành công nghiệp, chế biến chế tạo tăng trưởng cao hơn cùng thời điểm năm trước, chỉ số tiêu thụ một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng so với cùng thời điểm năm 2023, chỉ số hàng tồn kho giảm mạnh, cho thấy hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện tại đã phục hồi do thị trường tiêu thụ ổn định tại những thị trường truyền thống và mở rộng ra những thị trường mới, nên nhận định ngành công nghiệp tỉnh Hậu Giang tiếp tục tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng 12/2024 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 1,01% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,72% so với cùng kỳ, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,72%; doanh nghiệp Nhà nước tăng 2,81%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 1,74%. Chia theo ngành kinh tế, một số ngành sử dụng nhiều lao động nhưng có chỉ số sử dụng lao động tăng nhiều so với cùng kỳ như: Sản xuất trang phục tăng 4,93%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 4,79%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 19,01%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 1,94%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 6,07%... Qua đó cho thấy lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh hết sức dồi dào và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp lớn trong khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hết sức ổn định và đã thu hút lượng lớn lao động làm ăn xa trở về tỉnh làm việc cho các doanh nghiệp trên địa bàn.

7. Thương mại, dịch vụ

7.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ

Năm 2024 khu vực dịch vụ tiếp có mức tăng trưởng khá, đóng góp 2,37 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng GRDP của tỉnh. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tăng 12,15%, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 72,35% tổng mức và tăng 10,75%.

Tổng doanh thu bán lẻ, dịch vụ lưu trú ăn uống và các ngành dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2024 ước tính đạt 5.853 tỷ đồng, tăng 1,20% so với tháng trước tăng 20,88% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 4.289 tỷ đồng, tăng 3,18% và 23,76%[3]; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 724 tỷ đồng, tăng 1,60% và 20,93%[4]; doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 840 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 91,86% và so với cùng kỳ năm trước tăng 8,01%.

Ước tính quý IV/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 17.226 tỷ đồng, tăng 6,35% so với quý trước và tăng 22,26% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính được 12.536 tỷ đồng tăng 5,96% và tăng 23,32%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 2.131 tỷ đồng, tăng hơn 6% và tăng 19,45%; doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện gần 2.560 tỷ đồng, tăng 8,52 và tăng 19,60%.

Tính chung cả năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 62.466 tỷ đồng, tăng 12,15% so với năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 45.194 tỷ đồng, tăng 10,75%[5]; doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành đạt 7.807 tỷ đồng, tăng 16,66%[6]; doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 9.465 tỷ đồng, tăng 15,43%.

7.2. Tình hình xuất nhập khẩu

Những tháng đầu năm 2024, tình hình xuất khẩu hàng hóa trực tiếp trên địa bàn tỉnh tăng khá cao so với cùng kỳ, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng và nguyên phụ liệu ở các doanh nghiệp để phục vụ sản xuất có tăng. Cho thấy tín hiệu tích cực trong việc đầu tư phát triển máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có xu hướng tốt.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 12/2024 ước tính đạt 86,67 triệu USD, so với tháng trước bằng 83,18% và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,38%. Trong đó: Xuất khẩu ước thực hiện được 72,42 triệu USD, so với tháng trước bằng 92,92% và so với cùng kỳ năm trước tăng 9,73%. Nhập khẩu ước thực hiện được 14,25 triệu USD, so với tháng trước bằng 54,27% và so với cùng kỳ năm trước bằng 51,22%. Do trị giá nhập khẩu  trong những tháng trước tăng chủ yếu ở các nhóm mặt hàng như máy móc, thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu đầu vào để sản xuất phục vụ thị trường Lễ, Tết. Cụ thể, trị giá nhập khẩu trong tháng 10 tăng 156,59% so với tháng 9 và tăng 129,12% so với cùng kỳ năm 2023; trong tháng 11 tăng 44,8% so với cùng kỳ, vậy nên ước thực hiện trong tháng cuối năm trị giá nhập khẩu có thể giảm.

Ước tính cả năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện được 1.298 triệu USD so với cùng kỳ năm trước tăng 5,59% và so với kế hoạch năm vượt 2,34%. Trong đó:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 879,9 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,81% và so với kế hoạch năm vượt 9,17%. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa trong năm 2024 khá ổn định, một số mặt hàng xuất khẩu tăng như hàng thủy sản tăng 24,34% tương đương 55,48 triệu USD; nhóm hàng rau quả tăng 21,28% tương đương 4,71 triệu USD; nhóm giày dép các loại tăng 39,22% tương đương 90,47 triệu USD;.... Đây là tín hiệu tốt cho thấy sự tăng trưởng ổn định và tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp đạt được nhiều kết quả tích cực trong năm 2024. Về thị trường xuất khẩu trong năm 2024, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 83 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu giảm 2 quốc gia (bằng 97,65% so cùng kỳ). Trong đó có một số thị trường xuất khẩu chủ yếu như: Nhật Bản đạt 60,74 triệu USD, tăng 9,69% so với cùng kỳ; Hàn Quốc đạt 51,55 triệu USD, tăng 49,11% so với cùng kỳ; Mỹ đạt 185,86 triệu USD, giảm 10,84 % so cùng kỳ; Singapore đạt 52,52 triệu USD, giảm 23,05 % so cùng kỳ; Trung Quốc đạt 52 triệu USD, giảm 29,59% so với cùng kỳ năm 2023.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 376,35 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,30% và so với kế hoạch năm đạt 90,03%. So với cùng kỳ năm 2023, trị giá nhập khẩu tăng ở một số nhóm mặt hàng như nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày tăng 440,54% tương đương 85,52 triệu USD; nhóm máy móc thiết bị, dụng cụ phương tiện khác tăng 111,42% tương đương 13,44 triệu USD; nhóm hàng hóa khác tăng 31,26% tương đương 15,45 triệu USD;... Bên cạnh đó, một số nhóm mặt hàng gặp khó khăn về thị trường như giấy các loại giảm 37,41% bằng 41,23 triệu USD; xăng dầu các loại giảm 93,05% bằng 22,928 triệu USD; nhóm hóa chất giảm 7,51% bằng 4,12 triệu USD;... Về thị trường nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa được 66 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó một số thị trường nhập khẩu chủ yếu như: Trung Quốc đạt 68,69 triệu USD, tăng 85,76%; Đài Loan đạt 21,69 triệu USD, tăng 214,94%; Hồng Kông đạt 16,86 triệu USD, tăng 411,44%;... Bên cạnh đó, một vài nước có giá trị nhập khẩu giảm như: Mỹ đạt 67,88 triệu USD giảm 15.45%; Thái Lan đạt 17,35 triệu USD, giảm 39,24% so với cùng kỳ; Nhật Bản đạt 2,13 triệu USD, giảm 46,09% so với cùng kỳ năm 2023.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,19 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 60,70% và so với kế hoạch năm đạt 19%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 41,20 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 100,13% và so với kế hoạch năm đạt 95,82%.

Tổng giá trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2024 ước được 627,43 triệu USD (chiếm tỷ trọng 49,94%), tăng 35,51% tương đương 164,41 triệu USD so với cùng kỳ; khu vực kinh tế trong nước được 628,83 triệu USD (chiếm tỷ trọng 50,06%), bằng 86,78% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trị giá xuất khẩu ước đạt 397 triệu USD, tăng 31,28% tương đương 94,60 triệu USD so với cùng kỳ năm trước; trị giá nhập khẩu ước đạt 230,43 triệu USD, tăng 43,46% bằng 69,81 triệu USD so với cùng kỳ năm 2023.

Cán cân thương mại hàng hóa ước tính cả năm 2024 xuất siêu 503,57 triệu USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 444,6 triệu USD).

7.3. Vận tải hàng hóa và hành khách

Hoạt động vận tải đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Doanh thu vận chuyển của các loại hình vận tải đường bộ và đường thủy tiếp tục giữ đà tăng ổn định. Tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi ước thực hiện năm cả 2024 đạt 1.901 tỷ đồng, tăng 13,96%  so với cùng kỳ năm trước.

Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng 12/2024 ước tính đạt 674,86 nghìn tấn, tăng 3,77% so với tháng trước và tăng 38,85% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 117.240,81 nghìn tấn.km, tăng 3,44% so với tháng trước và tăng 43,05% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu ước tính đạt 109,13 tỷ đồng, tăng 3,80% so với tháng trước và tăng 45,73% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính quý IV, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1.967,52 nghìn tấn, tăng 9,04% so với quý trước và tăng 36,67% so với cùng kỳ năm 2023; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 342.474,15 nghìn tấn.km, tăng 9,40% so với quý trước và tăng 39,44% so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu đạt 318,43 tỷ đồng, tăng 9,25% so với quý trước và tăng 43,59% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung cả năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 6.598,34 nghìn tấn, tăng 14,06% so với năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.134.571,47 nghìn tấn.km, tăng 19,17% so với năm trước; doanh thu đạt 1.048,51 tỷ đồng, tăng 27,27% so với năm trước.

Vận tải hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng 12/2024 ước đạt 2.760,35 nghìn lượt hành khách, tăng 2,11% so với tháng trước và tăng 11,32% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 60.488,24 nghìn HK.km, tăng 4,87% so với tháng trước và tăng 23,40% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu ước tính đạt 54,89 tỷ đồng, tăng 5,73% so với tháng trước và tăng 46,59% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính quý IV, số lượt hành khách vận chuyển đạt 8.154,31 nghìn lượt hành khách, tăng 9,95% so với quý trước và tăng 11,52% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 172.059,50 nghìn HK.km, giảm 2,69% so với quý trước và tăng 19,18% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu đạt 160,99 tỷ đồng, tăng 7,16% so với quý trước và tăng 43,85% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 29.889,87 nghìn lượt hành khách, tăng 2,44% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 674.710,24 nghìn HK.km, tăng 16,53% so với năm trước; doanh thu đạt 586,31 tỷ đồng, tăng 32,74%  so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng 12/2024 ước tính đạt 18,60 tỷ đồng, tăng 2,45% so với tháng trước và bằng 53,41% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý IV/2024 ước đạt 58,77 tỷ đồng, tăng 2,98% so với quý trước và bằng 57,68% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, doanh thu đạt 266 tỷ đồng, bằng 66,10% so với năm 2023.

8. Các vấn đề về xã hội

8.1. Dân số, lao động và an sinh xã hội

Dân số trung bình trên địa bàn tỉnh năm 2024 ước tính đạt 730.014 người, tăng 0,24% so với năm 2023, trong đó dân số khu vực thành thị 205.152 người, chiếm 28,10% tổng dân số và tăng 0,24%; dân số khu vực nông thôn 528.862 người, chiếm 71,90% và tăng 0,23%. Chia theo giới tính dân số nam 369.567 người, chiếm 50,62% và tăng 0,24% so với năm 2023; dân số nữ 360.447 người, chiếm 49,38% và tăng 0,23%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 418.073 người, tăng 0,47% so với cùng kỳ. Hiện lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 411.531 người, tăng 0,38% so với năm 2023, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 70,43%, tăng 2,63% so với cùng kỳ năm 2023.

Công tác giải quyết việc làm luôn được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện, trong năm đã tạo và giải quyết việc làm mới cho 26.054 lao động, đạt 173,69% chỉ tiêu Nghị quyết của Tỉnh ủy năm 2024, tăng 55,89% so với cùng kỳ năm 2023.

Năm 2024, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, giám sát của HĐND tỉnh, điều hành của UBND tỉnh, sự chung sức, đồng lòng của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đạt được kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực, tình hình đời sống dân cư tương đối ổn định so với cùng kỳ năm 2023.Cụ thể:

- Đối với người lao động làm công ăn lương vẫn giữ được ổn định so với năm trước, trong năm Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách nâng lương cơ bản cho tất cả các đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức từ ngày 01/7/2024, mức nâng từ 1.800.000  đồng lên 2.340.000 đồng (tăng tương đương 30%) đã cải thiện được cuộc sống, giảm bớt khó khăn cho gia đình và người lao động để ổn định cuộc sống.

- Đối với đời sống người dân nông thôn hoạt động nông nghiệp là chính, nguồn thu nhập chủ yếu từ trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, khí hậu, giá phân bón, thuốc trừ sâu, giá thức ăn cho chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, giá giống, giá bán của các mặt hàng nông sản, thủy sản,... Vì vậy, chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm và có những chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhằm ổn định và nâng cao chất lượng đời sống người dân nông thôn.

Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội:

- Chăm lo Tết cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, công nhân, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Trong đó, toàn tỉnh đã tổ chức Đoàn đi thăm, họp mặt và tặng 221.608 phần quà (cho người có công với cách mạng và các đối tượng chính sách - xã hội khác với tổng kinh phí 111.919,326 triệu đồng (tương đương so với năm 2023). Mức quà cơ bản là 500.000 đồng/phần.

- Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2024). Kết quả, toàn tỉnh đã tổ chức thăm, tặng 17.981 phần quà cho người có công, thân nhân người có công với tổng kinh phí 10.233 triệu đồng.

- Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 455.780 lượt đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 299,6 tỷ đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 2.019 trường hợp với số tiền 14,88 tỷ đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 53 trường hợp với số tiền 1,025 tỷ đồng.

Toàn tỉnh, đã tổ chức thăm, tặng 300 phần quà cho người khuyết tật tỉnh nhân kỷ niệm Ngày vì người khuyết tật Việt Nam 18/4/2024 và 250 phần quà cho nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam nhân Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8); với tổng kinh phí 275 triệu đồng.

Tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì trẻ em năm 2024, tại Lễ phát động đã trao tặng 182 phần quà (tiền mặt) cho trẻ em với kinh phí 90 triệu đồng. Trong năm 2024, toàn tỉnh đã tổ chức họp mặt, thăm, tặng quà cho 29.702 lượt trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhân các dịp Lễ, Tết, Ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6; Tết Trung thu… với số tiền trên 8,5 tỷ đồng

Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương:

- Trong năm, Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 900 cuộc với 33.973 lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 441 cuộc với 2.776 phút tuyên truyền về tác hại của các loại tệ nạn xã hội.

- Về công tác quản lý đối tượng: Tổng số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý tại địa phương là 522 người; số người đang cai nghiện có mặt tại cơ sở cai nghiện đến thời điểm báo cáo là 251 người.

8.2. Giáo dục

Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 84,29% tổng số trường, tăng 1,35 % so với cùng kỳ đạt 100,19% kế hoạch; số sinh viên trên 10.000 người dân là 220 sinh viên, tăng 05 sinh viên so với cùng kỳ.

Toàn ngành có 311 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường; tiểu học có 143 trường, trung học cơ sở có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam) và 23 trường trung học phổ thông (trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh); 01 Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tỉnh Hậu Giang; Giáo dục thường xuyên có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.

Quy mô học sinh năm học 2024-2025: Huy động học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông là 156.661/154.990, đạt 101,77%, cụ thể như sau:

- Giáo dục Mầm non:

+ Nhà trẻ: 2.900/2.900, đạt tỉ lệ 100%.

+ Mẫu giáo: 24.820/24.800, đạt tỉ lệ 100,08%.

- Giáo dục phổ thông:

+ Tiểu học: 59.655/62.800 đạt tỉ lệ 95,00%.

+ THCS: 48.328/44.620, đạt tỉ lệ 108,30%.

+ THPT: 20.958/19.870, đạt tỉ lệ 105,47%.

Đội ngũ nhà giáo: Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 9.218 người. Trong đó, có: 756 cán bộ quản lý, 7.655 giáo viên; 952 nhân viên và lao động hợp đồng theo Nghị định số 111/2022/NĐ-CP thuộc các cấp học, trong đó có 329 thạc sĩ.

Kỳ thi Tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024, toàn tỉnh có 6.979 thí sinh dự thi đăng ký xét công nhận tốt nghiệp, tăng 370 thí sinh so với cùng kỳ, số thí sinh được công nhận tốt nghiệp là 6.946 thí sinh, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,53%, tăng 0,76% so với năm 2023.

8.3. Tình hình văn hóa, thể thao

Trong năm, toàn Ngành tập trung triển khai tổ chức các hoạt động Mừng Đảng- Mừng Xuân 2024; Tuyên truyền kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2024), kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2024). Phối hợp tổ chức thành công Chương trình Lễ hội Giao thừa và bắn pháo hoa chào mừng (truyền hình trực tiếp); phối hợp tổ chức Họp mặt Nhà báo - Văn nghệ sĩ, Nhà doanh nghiệp, Nhà khoa học, Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, Kiều bào; kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2024); Hội báo xuân năm 2024; Ngày Thơ Việt Nam; Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4. Cụ thể kết quả đạt được như sau:

- Trung tâm Văn hóa tỉnh:

+ Toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tập trung tuyên truyền ý nghĩa các ngày Lễ lớn của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là Mừng Đảng - Mừng Xuân 2024, kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2024), kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2024),… kết quả: In mới và lắp đặt: 33.346,35m2 pano các loại, treo hơn 36.440 cờ các loại, 1.990 băng rol.

+ Tổ chức: Hội thi Nghệ thuật quần chúng tỉnh Hậu Giang năm 2024; Hội thi các hoạt động tuyên truyền cổ động tỉnh Hậu Giang năm 2024.

+ Tham gia: Hội thi Tuyên truyền lưu động kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024) từ ngày 24/3 đến ngày 05/4/2024 tại các tỉnh, thành phố: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên[7]; Hội diễn “Tiếng hát hẹn hò 9 dòng sông” lần thứ XIX tại tỉnh Trà Vinh[8].

+ Phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh tổ chức Liên hoan nghệ thuật các dân tộc tỉnh Hậu Giang năm 2024.

+ Triển khai kế hoạch thực hiện: Đề án Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2024; Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2024.

- Thư viện tỉnh: Tổ chức triển lãm Báo Xuân và triển lãm sách chuyên đề tại Thư viện tỉnh với 400 loại báo Xuân của các báo Trung ương và ấn phẩm Xuân của các tỉnh, thành phố trong cả nước, 16 ấn phẩm Xuân của các Sở, ban ngành, địa phương, đơn vị của tỉnh Hậu Giang tham gia Cuộc thi bình chọn Ấn phẩm Xuân Giáp Thìn 2024; triển lãm, giới thiệu báo Xuân của Trung ương và địa phương, đọc trực tuyến trên website http://baoxuanhaugiang.vuc.vn; kết hợp tổ chức Lễ Tổng kết Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc năm 2024; triển khai con đường sách, con đường triển lãm ảnh nghệ thuật, mỹ thuật tỉnh Hậu Giang và đồng bằng sông Cửu Long từ ngày 29/12/2023 - 02/01/2024 tại đường Trần Hưng Đạo, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Qua đó trưng bày, triển lãm 5.000 quyển sách với các chủ đề: Sách viết về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; sách viết về Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh; sách chuyên đề về mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Thìn 2024; sách quý, sách hay; tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 3 năm 2024 với các hoạt động: Triển lãm 1.500 quyển sách tại chỗ và 2.000 quyển sách trên xe Thư viện lưu động đa phương tiện với các chủ đề: Chuyên đề về Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; Sách về Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Sách về biển đảo Việt Nam; Sách viết về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội tỉnh Hậu Giang; Sách thiếu nhi và sách mới các lĩnh vực; tổ chức 02 cuộc thi về Sách: Cuộc thi Vẽ tranh theo sách dành cho thiếu nhi và cuộc thi Tìm hiểu kiến thức qua sách, báo cho học sinh Trung học phổ thông; Tổ chức triển lãm 500 quyển sách hưởng ứng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 năm 2024, tại Trung tâm Văn hóa tỉnh, thu hút trên 500 lượt người xem.

Phối hợp Thư viện huyện Long Mỹ tổ chức triển lãm 1.750 quyển sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện và trưng bày tại gian triển lãm nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1980 - 19/5/2024), từ ngày 16-17/5/2024 tại Di tích lịch sử - văn hóa Đền thờ Bác Hồ (xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ)…

- Bảo tàng tỉnh: Tổ chức 60 cuộc triển lãm ảnh phục vụ các sự kiện: Festival ngành hàng hoá gạo Việt Nam - Hậu Giang; Triển lãm hình ảnh phục vụ Hội báo xuân Giáp Thìn năm 2024 và Lễ kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2024); triển lãm ảnh tại Trung tâm Hội Nghị tỉnh, di tích Chiến thắng Chương Thiện, thành phố Vị Thanh và Trung tâm Văn hóa huyện Châu Thành phục vụ các hoạt động “Mừng Đảng quang vinh, Mừng Xuân Giáp Thìn năm 2024”; Phối hợp các đơn vị có liên quan tổ chức Họp mặt kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 –30/4/2024) tại Khu di tích Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp…Tiếp 318 đoàn khách tham quan tại các di tích Chiến thắng Chương Thiện tai TP.Vị Thanh; Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ ...

Lĩnh vực Thể dục thể thao: Tổ chức thành công Giải Marathon quốc tế “Mekong Delta Marathon” tỉnh Hậu Giang lần thứ V năm 2024, có khoảng 10.800 vận động viên trong và ngoài nước tham gia, với mục tiêu nâng cao sức khỏe, tinh thần cho người dân và giới thiệu, quảng bá hình ảnh Hậu Giang thân thiện, mến khách.; giải Vô địch Kickboxing khu vực Đồng bằng sông Cửu Long năm 2024; Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2024; Tổ chức 22 giải thể thao; “Mừng Đảng quang vinh – Mừng xuân Giáp Thìn” năm 2024: Aerobic, Quần vợt, Đua thuyền rồng, Lân Sư Rồng tỉnh Hậu Giang mở rộng và giải kickboxing tỉnh Hậu Giang mở rộng; vô địch võ Cổ truyền tỉnh Hậu Giang năm 2024;…Tham gia 57 giải, đạt 194 huy chương các loại gồm 45 HCV, 76 HCB, 73 HCĐ, đạt 277% so với kế hoạch (trong đó, 07 giải quốc tế đạt 06 HCB, 02 HCĐ; 44 giải toàn quốc đạt 16 HCV, 31 HCB, 44 HCĐ; 06 giải khu vực đạt 29 HCV, 39 HCB, 27 HCĐ).

Về du lịch: Trong năm 2024, toàn tỉnh đón đón 583.000 lượt khách tham quan du lịch (33.000 lượt khách quốc tế, 550.000 lượt khách nội địa) và đạt 106% kế hoạch. Tổng thu từ du lịch đạt 264 tỷ đồng và đạt 110% kế hoạch.

8.4. Y tế

Trong tháng, có 31 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 10 ca so với tháng trước; cộng dồn là 339 ca, giảm 280 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 148 ca, tăng 08 ca so với tháng trước; cộng dồn là 1.024 ca, giảm 779 ca (trong đó có 01 ca tử vong) so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút có 01 ca mắc mới, cộng dồn là 82 ca, tăng 82 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi có 12 ca mắc mới, cộng dồn 110 ca, tăng 109 ca so với cùng kỳ năm 2023; bệnh Đậu mùa khỉ và bệnh Viêm não Nhật Bản trong tháng không có ca nào, cộng dồn 01 ca, tăng 01 ca so với năm 2023; bệnh dịch lạ, quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.

Trong tháng, Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 814 trẻ, cộng dồn là 10.036 trẻ, đạt 98,1%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 698 trẻ, cộng dồn 9.805 trẻ, đạt 92,6%; tiêm VNNB(3) trong tháng là 109 trẻ, cộng dồn 7.270 trẻ, đạt 68,6%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 219 thai phụ, cộng dồn là 6.786 thai phụ, đạt 66,3%.

Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 12 ca, cộng dồn là 112 ca, lũy kế từ 2004 đến nay là 2.142 ca (số đang quản lý 1.183); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 01 ca, cộng dồn là 09 ca, lũy kế từ 2004 đến nay là 625 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone 117 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV 1.079 người.

Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 12/2024: Tổng số lần khám trong tháng là 163.403 lượt, cộng dồn là 1.871.313 lượt  đạt 114,17% kế hoạch năm, tăng 8,7% so với cùng kỳ 2023. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú trong tháng là 13.034 lượt, cộng dồn là 133.676 lượt, đạt 90,76% kế hoạch, tăng 1,95% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 5,30 ngày, giảm 0,78 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn (các loại), ngộ độc, chấn thương là 11.072 trường hợp, tăng 1.586 trường hợp so với cùng kỳ.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong năm có 295 cơ sở vi phạm, phạt tiền 12 cơ sở, với số tiền xử phạt là 52,65 triệu đồng, nhắc nhỡ 283 cơ sở.

8.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông

Trong năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/12/2024) toàn tỉnh xảy ra 173 vụ tai nạn giao thông, làm chết 72 người, bị thương 128 người. So cùng kỳ năm 2023, số vụ giảm 17, số người chết giảm 42, số người bị thương tăng 08. Trong đó, tai nạn giao thông đường thủy xảy ra 02 vụ, làm chết 01 người, làm bị thương 01 người; so với năm 2023: số vụ giảm 01, số người chết giảm 01, số người bị thương giảm 01.

8.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng chống cháy, nổ

Trong năm, đã phát hiện và xử lý 13 vụ vi phạm môi trường, với tổng số tiền xử phạt là 48,65 triệu đồng.

Tình hình thiên tai: Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 5.366 triệu đồng, giảm 62.929,14 triệu so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó:

- Sạt lở: Xảy ra 22 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 610m; diện tích mất đất 2.950,10 m2; ước thiệt hại là 3.026 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ sạt lở giảm 41 vụ, số tiền thiệt hại giảm 2.580 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 6.411,66 m2.

- Dông lốc: Xảy ra 28 vụ dông lốc làm sập 08 căn nhà và tốc mái, hư hại 72 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 2.340 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sửa chữa nhà và 54 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2023, xảy ra 52 vụ giông lốc, làm sập 25 căn nhà, tốc mái hư hại 77 căn nhà, ước thiệt hại 2.385,78 triệu đồng.

Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 302 triệu đồng.

9. Đề xuất giải pháp

Năm 2025, là năm cuối để hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025) trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực còn khó khăn và thách thức. Trong nước và trong tỉnh, kinh tế dự báo tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro đan xen, đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi từ bên ngoài, nhưng có nhiều thời cơ, thuận lợi: tình hình chính trị - xã hội và kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân ngày càng nâng lên. Để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, trong thời gian tới các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị cần tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:

Một là, thực hiện hiệu quả Chương trình của Tỉnh ủy triển khai thực hiện Quy hoạch tỉnh Hậu Giang thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch của UBND tỉnh thực hiện Chương trình của Tỉnh ủy.

Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực để hỗ trợ sản xuất cho doanh nghiệp, đồng thời tăng cường xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh công tác kêu gọi, thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp; nâng cao tỷ lệ lắp đầy các khu, cụm công nghiệp được hình thành.

Ba là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang; triển khai thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa tỉnh Hậu Giang đến năm 2030, nhằm khai thác tối đa lợi thế xuất nhập khẩu và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh theo hướng tăng trưởng xanh, phát triển nhanh, bền vững, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm hàng hóa; chủ động hội nhập kinh tế thế giới.

Bốn là, phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền nông nghiệp có giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững trên cơ sở tập trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ thông minh vào các khâu sản xuất, nhằm tăng chất lượng, sức cạnh tranh và thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống Nhân dân.

Năm là, quản lý, sử dụng tài chính có hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng: Quản lý chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, chi cho bộ máy quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp công, khuyến khích các đơn vị phấn đấu tăng nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp để chủ động chuyển sang tự hạch toán thu, chi, không bổ sung các đề án, chương trình, ban hành các chính sách mới hoặc nâng định mức làm tăng chi ngân sách nhà nước khi chưa xác định được nguồn đảm bảo.

Sáu là, đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ môi trường; phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh và phúc lợi xã hội./.

[1] Tốc độ tăng GRDP các năm 2020-2024 lần lượt là 2,47%; 3,60%; 14,63%; 10,71%; 8,76%.

[2] Tổng diện tích lúa giảm 1.522 ha: diện tích giảm chuyển sang cây trồng khác và chuyển sang đất phi nông nghiệp để thực hiện các chương trình, dự án.

[3] Trong tháng 12/2024 thị trường bán lẻ ổn định, doanh thu các nhóm hàng chủ lực đa số đều có mức tăng so với tháng trước: Lương thực thực phẩm tăng 3,44%, đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng 3,86%, gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,37%, vàng, đá quý và sản phẩm tăng 3,46%, hàng hóa khác tăng 1,47%.

[4] Chia ra: Ngành lưu trú ước tính được 28,33 tỷ đồng, tăng 3,41% và 4,27%; ngành ăn uống ước tính được 695,33 tỷ đồng, tăng 1,54% và 21,72%.. Do là tháng cuối gần Tết Dương lịch nên nhiều chương trình, sự kiện đông người sẽ được tổ chức nhiều sẽ tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các khách sạn, nhà nghỉ lưu trú và nhà hàng, quán ăn.

[5] Thị trường bán lẻ ổn định, doanh thu các nhóm hàng chủ lực đa số đều có mức tăng so với cùng kỳ. Trong đó, lương thực thực phẩm tăng 18,28%; hàng may mặc tăng 35,05%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 17%...

[6] Chia ra:: Ngành lưu trú ước tính được 312,69 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 22%; Ngành ăn uống ước tính được 7.493,59 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,45%.

[7] Kết quả đạt: 01 huy chương vàng tiết mục “Gửi tình Hậu Giang về với Điện Biên”, 02 huy chương bạc tiết mục gồm: “Ánh sáng Điện Biên” và “Rạng rỡ nụ cười Điện Biên”, 01 giấy khen cho Biên đạo múa xuất sắc.

[8] Kết quả đạt: Huy chương Bạc toàn đoàn; 01 Huy chương Vàng tiết mục tốp ca “Bay lên vùng đất Chín Rồng”; 01 Huy chương Bạc tiết mục múa “Tình tre đất phụng”.

Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang