Thứ hai, 00/00/2023
°

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2022 tỉnh Lạng Sơn

Ngày 30/05/2022 - 08:49:00 | 274 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Đến trung tuần tháng 5/2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã kết thúc diện tích gieo trồng vụ Xuân năm 2022. Vụ Đông Xuân 2021 - 2022 mặc dù gặp nhiều khó khăn do đầu vụ thời tiết mưa ít, giữa tháng 5 lại xảy ra mưa lớn gây ra lũ quét, ngập úng ở nhiều nơi, nhưng sản xuất nông nghiệp cơ bản vẫn giữ được ổn định. Đề án “Chương trình mỗi xã một sản phẩm của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến năm 2030” tiếp tục được triển khai, sản phẩm dựa trên thế mạnh, lợi thế về nguyên liệu của địa phương. Việc liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày càng được quan tâm. Công tác phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được quan tâm, không xảy ra dịch bệnh; nguồn giống, vật tư cơ bản đảm bảo phục vụ sản xuất, tuy nhiên giá các vật tư nông nghiệp tăng so với cùng kỳ (Phân bón tăng từ 20 - 40%; giống lúa, ngô tăng từ 5-10%, nguyên nhân do giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất phân bón, giá xăng dầu, chi phí vận chuyển tăng). Đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định, trong đó đàn lợn tăng cao so với cùng kỳ do người chăn nuôi tiếp tục đẩy mạnh tái đàn. Từ ngày 10-15/5/2022, có mưa lớn trên diện rộng, gây ra lũ trên các sông chính, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, hoa màu, công trình hạ tầng.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1 Trồng trọt

- Cây lúa: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 15.186,76 ha, tăng 1,20%. Diện tích gieo trồng cây lúa tăng do thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, người dân đã đẩy nhanh tiến độ cày ải nên diện tích gieo trồng tăng hơn so với năm trước.

- Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước thực hiện 13.234,57 ha, tăng 0,06% so với cùng kỳ, cây ngô đang trong giai đoạn phát triển ổn định.

- Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng trong tháng ước đạt 110,62 ha, tăng 0,1% so với cùng kỳ, cộng dồn ước đạt 517,87 ha, tăng 4,91%. Diện tích khoai lang tăng chủ yếu được rồng ở các huyện: Hữu Lũng, Lộc Bình, Cao Lộc, thị trường tiêu thụ tăng, giá khoai lang ổn định.

- Cây lạc: Diện tích gieo trồng ư­­ớc thực hiện đạt 109,02 ha, tăng 2,61% so với cùng kỳ, diện tích tăng do người dân tận dụng trồng thêm trên các bãi nhỏ lẻ do hạn để đất trống, công đầu tư cho lạc ít mà giá trị của lạc đem lại cao.

- Rau các loại: Diện tích gieo trồng cộng dồn từ đầu vụ Đông Xuân ư­­ớc thực hiện 6.033,03 ha, tăng 0,02% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích thu hoạch trong tháng ước đạt 226,09 ha, tăng 0,04% so với cùng kỳ, tương đương với sản lượng thu hoạch ước đạt 11.084,59 tấn, giảm 1,48% so với cùng kỳ.

1.1.2 Chăn nuôi

Tổng đàn trâu: 63.265 con, giảm 6,29% so với cùng kỳ năm trước, đàn trâu toàn tỉnh giảm dần do hiệu quả kinh tế không cao và môi trường chăn thả bị thu hẹp, đa số diện tích đất canh tác hiện nay đều sử dụng máy móc thay cho sức cày kéo của trâu, các hộ dân chủ yếu nuôi trâu với mục đích bán thương phẩm.

Tổng đàn bò: 28.245 con, giảm 15,73% so với cùng kỳ năm trước, tỉnh đã có nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ người dân về nguồn vốn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi của các ngành, các cấp và chính quyền địa phương. Nhiều mô hình phát triển chăn nuôi bò thịt, kết hợp xử lý chất thải làm phân bón hữu cơ rất có hiệu quả.

Tổng đàn lợn: Số con hiện có ước 166.563 con, tăng 44,76%. Tình hình bệnh dịch tả lợn châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản được khống chế, các cơ sở chăn nuôi đã chủ động tái đàn và vẫn duy trì thường xuyên công tác tăng đàn và tái đàn, nhiều mô hình chăn nuôi an toàn sinh học được duy trì và phát triển. Số con xuất chuồng ước 24.956 con, tương đương sản lượng hơi xuất chuồng đạt 2.077,24 tấn, tăng 5,59% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng đàn gia cầm: Ước tính tổng đàn gia cầm toàn tỉnh 4.596,36 nghìn con, giảm 7,26% do lượng cung thịt lợn cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường nên nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm giảm. Ước đàn gà là 4.487,28 nghìn con, giảm 3,94% so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng của gia cầm đạt 1.263,51 tấn. Sản lượng trứng gia cầm đạt 5.118,24 nghìn quả (Trong đó, số lượng trứng gà đạt 4.328 nghìn quả),sản lượng trứng gà tăng cao do số gà mái đẻ công nghiệp tăng, và người chăn nuôi sử dụng giống gà siêu trứng cho năng suất cao.

1.2. Lâm nghiệp

Tổng diện tích trồng rừng toàn tỉnh trong tháng ước thực hiện được 1.628 ha, lũy kế 6.144,31 ha. Trong đó: Trồng cây phân tán 1.321,8 nghìn cây, tăng 14,39% so với cùng kỳ. Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 0,51 ha rừng trồng tại xã Đề Thám, huyện Tràng Định.

Khai thác gỗ tròn các loại trong tháng ước đạt 14.920,58m3, tăng 15,11% so với cùng kỳ; cộng dồn từ đầu năm ước đạt 72.188,1 m3, tăng 15,47% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác tăng do hiệu quả kinh tế từ trồng rừng sản xuất mang lại, diện tích rừng sản xuất ngày càng lớn; gỗ đến tuổi khai thác và nhu cầu chế biến gỗ của các cơ sở trên địa bàn tăng.

Củi các loại trong tháng ước 130.256,28 ste, tăng 2,36% so cùng kỳ. Cộng dồn từ đầu năm 572.656,98 ste, tăng 3,25% so cùng kỳ năm trước. Khai thác củi tập trung chủ yếu ở khu vực cá thể, được dùng cho mục đích đun nấu và một phần được tiêu thụ trên thị trường.

1.3. Thủy sản

Trung tâm Khuyến nông tỉnh thực hiện sản xuất và cung ứng cá giống đảm bảo chất lượng cho nông dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh, ương nuôi được 2.000.000 con cá bột (trôi, mè) lên cá hương và cung ứng được 68.330 con cá giống.

2. Sản xuất công nghiệp

2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5/2022

2.1.1. So với tháng trước

Trong tháng 5/2022, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tiếp tục đà phát triển, các doanh nghiệp chủ động khôi phục toàn bộ hoạt động và tìm đơn hàng mới để đẩy mạnh sản xuất. Do vậy, hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng 5 tiếp tục được khởi sắc.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5 tăng 2,29% so với tháng trước. Cụ thể, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,99%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,93%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 2,46%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 2,65%.

Ngành công nghiệp khai khoáng, ngành khai thác than cứng và than non (sản phẩm than) tăng 5,92% nguyên nhân chủ yếu do tháng 5 lượng tiêu thụ điện sản xuất thấp, kéo theo sản lượng khai thác than thấp; khai khoáng khác (sản phẩm đá xây dựng khác) tăng 12,11% đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về nguyên vật liệu cho hoạt động xây dựng trên địa bàn, đặc biệt đối với các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh đang trong quá trình triển khai thực hiện.

Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo một số sản phẩm sản xuất tăng so với tháng trước như: Bê tông trộn sẵn tăng gần gấp 2 lần so với tháng trước, cửa ra vào bằng sắt thép tăng 66,67%, xi măng tăng 4,74% do trong tháng nhiều công trình nhà ở, đường giao thông nông thôn đi vào sửa chữa, xây dựng mới; chế biến thực phẩm tăng 8,6% so với tháng trước, tuy đã vào vụ chè nhưng thời tiết khô hạn không thuận lợi đã ảnh hưởng sản xuất nên tháng 3,4 sản phẩm sản xuất chè đạt thấp, nhưng sang tháng 5 sản lượng ước tăng 76,67% so với tháng 5, sản xuất bánh, kẹo tăng khá: với mức tăng 50,38% và sản xuất rượu trắng có cồn tăng 81,03% so với tháng trước... Ngoài ra, một sản phẩm khác  trong công nghiệp chế biến chế tạo có xu hướng giảm so với tháng trước, như: muối công nghiệp, colphan giảm do thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất.

Ngành sản xuất và phân phối điện: Cung ứng điện sản xuất và điện thương phẩm phục vụ nhu cầu sử dụng điện của các cơ sở sản xuất kinh doanh; điện sản xuất dự ước giảm 3%, điện thương phẩm tăng 1% so với tháng trước.

Trong ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Hoạt động khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,41%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 2,99% so với tháng trước.

2.1.2. So với cùng kỳ

Nhìn chung, trong tháng 5 năm 2022 hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn cơ bản ổn định và tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước, một số sản phẩm có thế mạnh của địa phương với thị trường ngày càng được mở rộng (các sản phẩm từ nhựa thông, thạch đen, gỗ và các sản phẩm từ gỗ...).

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5 so với cùng kỳ tăng 10,41%. Ngành công nghiệp khai thác giảm 1,49%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 18,21%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 5,54%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 4,85% so với tháng cùng kỳ.

Trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, một số sản phẩm sản xuất tăng so với tháng cùng kỳ như: Dịch vụ sản xuất thuộc, sơ chế da có chỉ số sản xuất tăng rất cao (tăng trên 700%) so với cùng kỳ do cùng kỳ năm trước doanh nghiệp chuyển từ nhận đơn hàng và trực tiếp sản xuất sản phẩm da cho đối tác phía Trung Quốc, khối lượng sản xuất ít tuy nhiên đơn giá rất cao, sang năm 2022 do phía đối tác không đặt hàng, doanh nghiệp chủ động tìm kiếm, ký kết đơn hàng gia công cho các doanh nghiệp trong nước với khối lượng gia công lớn, tuy nhiên đơn giá thấp. Sản phẩm colophan và các sản phẩm nhựa cây tăng 28,57%; sản phẩm muối công nghiệp tăng 237,26%, do nhu cầu nhập khẩu sản phẩm để làm chế phẩm công nghiệp từ phía đối tác Trung Quốc tăng. Sản phẩm rượu trắng có cồn tăng 197,17%,  dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, các nhà hàng, quán ăn đã mở cửa trở lại, nhiều lễ hội và hoạt động du lịch phát triển dẫn đến nhu cầu tiêu thụ tăng. Sản phẩm in, sao chép các loại bản ghi tăng trên 100% do cùng kỳ năm 2021 các doanh nghiệp vừa chống dịch vừa sản xuất khiến chi phí tăng cao, tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên vật liệu đầu vào vật tư chính như giấy.

Một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ, chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động dựa theo đơn đặt hàng, cụ thể: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sản phẩm kim loại…

Ngành công nghiệp điện, sự tăng, giảm sản lượng phụ thuộc vào lệnh điều độ sản xuất của Tổng Công ty Điện lực miền Bắc. Sản lượng điện sản xuất tháng 5/2022 tăng 7,64%; điện thương phẩm giảm 5,47% so với cùng kỳ.

So với cùng kỳ năm trước, ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,83%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 9,06%.

2.2. Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 5/2022 tăng 0,76% so với tháng trước và giảm 2,36% so với cùng kỳ. So với cùng kỳ ngành khai khoáng chỉ số sử dụng lao động giảm 2,55%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,33%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,11%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 9,89%. Bình quân 5 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động giảm 4,39% so với cùng kỳ năm trước.

3. Đầu tư, xây dựng

Hoạt động đầu tư tập trung chủ yếu triển khai thực hiện các dự án chuyển tiếp, các dự án dự kiến khởi công mới đang thực hiện một số thủ tục chuẩn bị đầu tư như thiết kế, đấu thầu... Các dự án lớn như: Dự án thành phần 2 (đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng) thuộc Dự án đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn; cải tạo nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn Km3+700 đến Km18); cải tạo, nâng cấp đường Cao Lộc - Ba Sơn (ĐH.28); hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn;... chủ đầu tư khẩn trương hoàn thiện công tác chuẩn bị đầu tư và các thủ tục khác có liên quan để sớm khởi công, thi công các dự án; rà soát, đẩy nhanh tiến độ giải ngân thanh toán nguồn vốn đã được giao năm 2022 theo đúng tiến độ. Tổng nguồn vốn đầu tư công phân bổ kế hoạch 2022 (chưa bao gồm vốn chương trình mục tiêu Quốc gia) là 2.498,3 tỷ đồng. Giá trị khối lượng thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư công 5 tháng năm 2022 ước đạt 758,3 tỷ đồng, đạt 30,35% kế hoạch.

Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh tháng 5/2022 thực hiện được 188,1 tỷ đồng, đạt 7,53% so với kế hoạch năm 2022, giảm 33,54% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 125,2 tỷ đồng, giảm 22,98%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 62,9 tỷ đồng, giảm 47,78%.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh 5 tháng đầu năm 2022 ước thực hiện 758,3 tỷ đồng, đạt 30,35% kế hoạch năm, giảm 17,42% so với cùng kỳ, gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 468,7 tỷ đồng, giảm 14,15%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 289,6 tỷ đồng, giảm 22,23%.

* Tiến độ thực hiện một số dự án trên địa bàn tỉnh:

- Dự án cải tạo, nâng cấp đường lên Khu du lịch Mẫu Sơn, giai đoạn 2 (đoạn km6 - km12) huyện Lộc Bình có tổng mức đầu tư 116,94 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 5/2022 ước thực hiện được 108,5 tỷ đồng, đạt 92,78% so với kế hoạch.

- Dự án Đường đến trung tâm xã Tân Yên (huyện Tràng Định) có tổng mức đầu tư 432,1 tỷ đồng. Lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 5/2022 ước thực hiện được 369,8 tỷ đồng, đạt 85,59% so với kế hoạch.

- Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B (đoạn km3+700 - km18): Công trình có tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 5/2022 ước thực hiện được 470,7 tỷ đồng, đạt 47,62% kế hoạch.

- Dự án Hạ tầng cơ bản phát triển các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Lạng Sơn (4 hợp phần), công trình có tổng mức đầu tư 1.377,6 tỷ đồng, lũy kế vốn thực hiện từ khi khởi công dự án đến tháng 5/2022 ước thực hiện được 443,4 tỷ đồng, đạt 32,18% kế hoạch.

4. Tài chính, ngân hàng

4.1. Tài chính[1]

- Về thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước thực hiện tháng 5 năm 2022 là 473,7 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa là 187 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 286,8 tỷ đồng. Lũy kế ước thực hiện 5 tháng năm 2022 là 2.803,4 tỷ đồng, đạt 36,2% so với dự toán Trung ương giao, đạt 35,7% so với dự toán tỉnh giao, bằng 60,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa là 961,7 tỷ đồng, đạt 42,7% so với dự toán Trung ương giao, đạt 40,9% dự toán tỉnh giao, bằng 77,6% so với cùng kỳ năm 2021; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 1.840 tỷ đồng, đạt 33,5% so với dự toán giao, bằng 53,9 % so với cùng kỳ năm 2021.

Ước thu nội địa 5 tháng năm 2022 giảm 22,4% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do tình hình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ ngừng, nghỉ kinh doanh, một số hộ kinh doanh thuộc đối tượng được miễn thuế theo Nghị quyết số 406/NQ-UBTVQH15 ngày 28/10/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nộp thuế được trừ vào số phải nộp năm 2022. Mặt khác, Trung ương ban hành văn bản quy định giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ 01/01/2022 đến hết 30/6/2022; tiếp tục giảm 50% lệ phí trước bạ đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đến hết 31/5/2022; giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ; giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm 46,1% với cùng kỳ năm 2021, nguyên nhân do trong điều kiện tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường thực hiện nghiêm ngặt công tác phòng chống dịch. Các cặp cửa khẩu phụ trên địa bàn chưa thông quan trở lại. Đồng thời, việc giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đối với các loại hàng hóa nhập khẩu ảnh hưởng mạnh đến thu ngân sách. Hơn nữa, hàng hóa nhập khẩu qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ lớn là sơ mi rơ móoc, các loại xe chuyên dùng, hàng hóa tiêu dùng, nội thất, hóa chất, nguyên liệu sản xuất, hoa quả đều thuộc dòng hàng được cắt giảm thuế quan theo lộ trình Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc và có thuế suất thuế nhập khẩu thấp (0% - 5%).

- Về chi ngân sách địa phương

Chi ngân sách địa phương được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, định mức. Đối với chi đầu tư phát triển và các chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ khác: công tác giải ngân, thanh toán các nguồn vốn, tạm ứng theo hợp đồng được khẩn trương, kiểm soát chặt chẽ, đúng chế độ, chính sách, đơn giá, định mức theo quy định hiện hành.

Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện tháng 5 năm 2022 là 809 tỷ đồng, lũy kế tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 5 tháng đầu năm 2022 là 3.364 tỷ đồng, đạt 30,6% dự toán giao đầu năm, bằng 95,4% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Chi trong cân đối ngân sách địa phương là 3.129.550 triệu đồng, đạt 32,4% dự toán giao đầu năm và bằng 99,6% so cùng kỳ năm 2021 (Chi đầu tư phát triển là 327,7 tỷ đồng, đạt 25,9% dự toán, bằng 73,4% so với cùng kỳ năm 2021. Chi thường xuyên là 2.742,4 tỷ đồng, đạt 33,8% dự toán, bằng 102,8% so với cùng kỳ). Chi các chương trình mục tiêu và một số nhiệm vụ khác là 234,7 tỷ đồng đạt 17,8% dự toán, bằng 61,1% so với cùng kỳ năm 2021.

4.2. Ngân hàng[2]

Chính sách điều hành tín dụng trên địa bàn được thực hiện theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế. Khả năng thanh khoản của các ngân hàng được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế và chi trả cho khách hàng, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ước thực hiện đến 31/5/2022: Tổng huy động vốn ước đạt 34.470 tỷ đồng, tăng 3% so với 31/12/2021. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn ước đạt 38.025 tỷ đồng, tăng 1,3% so với 31/12/2021.

5. Thương mại và dịch vụ

Từ cuối tháng 4, phía Trung Quốc bùng phát dịch Covid-19 do đó hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa trên địa bàn tỉnh tiếp tục gặp khó khăn. Tuy nhiên, tỉnh tiếp tục tổ chức thiết lập “vùng xanh “ an toàn tại các cửa khẩu, đảm bảo công tác chống dịch cao nhất, tạo sự đồng nhất với phía Trung Quốc về công tác phòng chống dịch, thúc đẩy hoạt động XNK hàng hóa qua các cửa khẩu của tỉnh, hiệu suất thông quan hàng hóa XNK trong tháng 5 đạt được kết quả khả quan, tăng so với các tháng trước. Kim ngạch hàng hóa XNK trong tháng đạt 1.500 triệu USD, tăng 159,2% so với tháng trước. Lũy kế đến hết ngày 12/5/2022, tổng kim ngạch hàng hóa XNK qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn đạt trên 5.856 triệu USD. Trong đó xuất khẩu mở tờ khai tại Lạng Sơn đạt 148,2 triệu USD, giảm 72,4% so với cùng kỳ; chủ yếu xuất khẩu hoa quả, ván gỗ bóc, đồ gỗ mỹ nghệ, quặng sắt, thủy sản. Kim ngạch nhập khẩu mở tờ khai tại Lạng Sơn đạt 509,1 triệu USD, giảm 47,3% so với cùng kỳ; chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị, linh kiện ô tô, hàng tiêu dùng, linh kiện điện tử...

Hoạt động thương mại, dịch vụ trong 6 tháng đầu năm diễn ra sôi động so với cùng kỳ do dịch bệnh Covid-19 cơ bản được kiểm soát, các hoạt động thương mại mở cửa trở lại bình thường. Bên cạnh đó, Lễ hội Kỳ Hoa – Lạng Sơn 2022 được diễn ra trong 5 ngày, từ 29/4 đến hết ngày 03/5 đã thu hút số lượng lớn khách đến tham quan và thưởng thức nét văn hoá, ẩm thực đặc sắc của tỉnh, đây là sự kiện đánh dấu hành trình khôi phục và phát triển ngành dịch vụ, du lịch của tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra, tỉnh cũng đã và đang tập trung phát triển các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tại một số huyện trên địa bàn tỉnh, như: Lộc Bình, Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng…. mục tiêu phát triển du lịch là một trong những ngành mũi nhọn của tỉnh trong giai đoạn tới.

5.1. Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 5/2022 dự ước đạt 1.845,3 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 3,11% và so với cùng kỳ tăng 17,50%. Dự ước tổng mức bán lẻ 5 tháng đầu năm 2022 đạt 8.932,1 tỷ đồng tăng 9,38% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm ngành hàng hóa trong 5 tháng đều tăng so với cùng kỳ. Cụ thể, có 6/12 nhóm ngành hàng hoá có tốc độ tăng so với cùng kỳ trên 10%: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 14,17%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 12,49%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 12,47%; nhóm xăng dầu và nhiên liệu khác tăng trên 14%. Các nhóm ngành hàng hóa còn lại có tốc độ tăng từ 5-7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm phương tiện đi lại tăng 5,77%; nhóm hàng hoá khác tăng 6,92%; nhóm doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 7,71% so với cùng kỳ.

5.2. Dịch vụ

5.2.1. Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Doanh thu du lịch lữ hành tháng 5/2022 dự ước đạt 1,1 tỷ đồng, tăng 10,12% so với tháng trước và tăng 59,40% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước 5 tháng đầu năm 2022 doanh thu dịch vụ du lịch đạt 4,9 tỷ đồng tăng 11,53% so với cùng kỳ. Hiện nay, hoạt động du lịch đã hoạt động trở lại, các tour du lịch trong nước đang tích cực thực hiện những gói ưu đãi lớn để kích cầu khách du lịch trong nước cũng như nước ngoài.

Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 5/2022: Ước tính doanh thu đạt 183,5 tỷ đồng, tăng 9,37% so với tháng trước và tăng 46,86% so với cùng kỳ năm trước (Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 10,6 tỷ đồng, tăng 8,61% so với tháng trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 172,9 tỷ đồng, tăng 9,42% so với tháng trước). Các cơ sở hoạt động dịch vụ ăn uống trên địa bàn tỉnh vẫn hoạt động bình thường, một số cơ sở đã mỏ rộng thêm quy mô kinh doanh đảm bảo phục vụ tối đa nhu cầu khách du lịch thập phương cũng như khách địa phương đến tham quan và giao lưu trong các kỳ nghỉ lễ 30/4 và 1/5 và đặc biệt trong lễ hội “ Kỳ hoa” được tổ chức trong đầu tháng 5.

5.2.2. Doanh thu dịch vụ khác

Doanh thu hoạt động dịch vụ tháng 5/2022 ước đạt 44,3 tỷ đồng, tăng 2,20% so với tháng trước và tăng 16,95% so cùng kỳ. Dự ước 5 tháng đầu năm 2022 doanh thu dịch vụ đạt 214,6 tỷ đồng  tăng 7,57% cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản tăng 9,86%; nhóm hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 11,45%; nhóm hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 19,15%; nhóm nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 17,72%; nhóm dịch vụ khác tăng 10,89%. Hầu hết các nhóm dịch vụ không thiết yếu hiện nay đã được hoạt động trở lại từ giữa tháng 4/2022 sau thời gian dài nghỉ dịch Covid-19 do đó doanh thu các nhóm dịch vụ đều tăng ở mức khá cao, đáp ứng được nhu cầu dịch vụ của nhân dân.

5.3. Vận tải

Hiện nay, để đảm bảo duy trì và nâng cao hiệu xuất thông quan tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Trung Quốc triển khai áp dụng các phương thức giao, nhận hàng hóa phù hợp với tình hình dịch, bệnh Covid-19 tại cửa khẩu, nhanh chóng tổ chức thực hiện tuyên truyền cho các doanh nghiệp, chủ hàng về việc thay đổi phương thức thông quan mới. Tuy nhiên, do phía Trung Quốc vẫn tăng cường công tác phòng chống dịch Covid-19 nên năng lực thông quan và việc triển khai thực hiện phương thức giao nhận hàng hóa mới chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng lớn đến hoạt động vận tải, kho bãi trên địa bàn. Tổng doanh thu toàn ngành vận tải tháng 5/2022 ước đạt 163,5 tỷ đồng, tăng 11,46% so với cùng kỳ. Ngành vận tải tăng so với cùng kỳ năm 2021, chủ yếu tăng ở khối lượng hành khách vận chuyển tăng do trong tháng 5 trên địa bàn tỉnh vào dịp 30/4 và 1/5 tổ chức lễ, hội lớn, lưu lượng khách vận chuyển tăng; khối lượng vận chuyển hàng hóa tháng 5 năm 2022 ước tăng do hiện nay tình hình dịch ổn định các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng…được kích cầu hoạt động bình thường vì vậy khối lượng vận chuyển hàng hoá tăng cao.

Doanh thu vận tải hành khách đạt 19,5 tỷ đồng, tăng 54,93% (hành khách vận chuyển tăng 60,98%; hành khách luân chuyển tăng 37,11%) so với cùng kỳ. Doanh thu phân theo thành phần kinh tế khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao so với năm 2021, do ảnh hưởng dịch Covid-19 trong năm 2021doanh nghiệp không có hợp đồng du lịch. Kết quả vận tải hành khách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tháng 5/2022 doanh thu đạt 140 triệu đồng, khối lượng vận chuyển đạt 555 lượt khách, khối lượng luân chuyển đạt 90.000 HK.Km. Sang đến quý II/2022  hoạt động dịch vụ du lịch được mở cửa trở lại, nhu cầu phục vụ khách du lịch tăng hơn so với nững tháng đầu năm và cùng kỳ.

Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 98,5 tỷ đồng, tăng 9,23% (hàng hoá vận chuyển tăng 89,58%; hàng hoá luân chuyển tăng 4,74%) so với cùng kỳ;

Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 45,2 tỷ đồng, tăng 3,63%; hoạt động bưu chính, chuyển phát đạt 0,3 tỷ đồng, tăng 14,52% so với cùng kỳ năm 2021.

6. Chỉ số giá

6.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chung toàn tỉnh tháng 5/2022 tăng 0,05% so với tháng trước, tăng 0,11% so với cùng kỳ năm trước:

So với tháng trước, trong 11 nhóm mặt hàng chính, có 6 nhóm hàng tăng, 4 nhóm hàng giảm và 01 nhóm hàng không thay đổi so với tháng trước. Chỉ số giá của một số nhóm ngành chủ yếu:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,4%:

+ Chủ yếu giảm ở mặt hàng thực phẩm, so với tháng trước giảm 0,73%. Trong đó, giá thịt gia súc giảm 2,42%, giá thịt lợn giảm 2,7% kéo theo giá dầu mỡ ăn giảm 0,11%, giá thịt gia cầm giảm 0,12%, giá rau tươi giảm 1,17%. Nguyên nhân do nguồn cung dồi dào.

+ Nhóm lương thực tăng 0,82%: Chỉ số giá nhóm lương thực tăng chủ yếu ở mặt hàng lương thực chế biến (tăng 2%) do sản lượng gạo chủ yếu từ vụ mùa hiện tại không dồi dào như trước, nguồn cung giảm dẫn đến giá thành ở các mặt hàng làm từ gạo như bún, phở khô tăng.

+ Ăn uống ngoài gia đình tăng 0,14%: Trong tháng 5/2022, tình hình dịch bệnh được kiểm soát, người dân yên tâm đi ăn uống, các nhà hàng, quán ăn phục vụ hết công suất trong ngày nghỉ lễ.

- Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,63%: Chỉ số giá của một số mặt hàng trong nhóm có sự biến động tăng, giảm cụ thể: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,53% do giá thép sau những tháng tăng cao, đến nay đã có xu hướng giảm. Giá điện sinh hoạt giảm 1,36%, do nhu cầu sử dụng điện của người dân giảm và do Công ty Điện lực áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% theo công văn số 604/EVN-TCKT ngày 09/02/2022 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Giá gas giảm 6,67% so với tháng trước, nguyên nhân do giá giao dịch gas thế giới ở mức 855 USD/tấn, giảm 95 USD/tấn so với tháng 4/2022 kéo giá gas bán lẻ trong nước giảm 29.000đ/bình. Giá dầu hỏa tăng 3,95%, do trong kỳ liên Bộ Công Thương – Tài chính điều chỉnh giá theo diễn biến giá dầu của thế giới.

- Nhóm giao thông tăng 2,55%: Chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng 2% so với tháng trước: Do trong tháng đã có 3 lần điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào các ngày 04/5, 11/5 và 23/5. Ngày 04/5, giá xăng A95 III là 28.990đ/lít (tăng 280đ/lít so với tháng trước); giá dầu Diezen là 26.040đ/lít (tăng 460đ/lít so với tháng trước). Trước những diễn biến về giá thành phẩm xăng, dầu thế giới trong thời gian gần đây và thực hiện điều hành giá xăng, dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính quyết định về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 400 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 300 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100 đồng/lít. Ngày 11/5, giá xăng A95 III là 30.570đ/lít (tăng thêm 1.580đ/lít so với kỳ ngày 04/5); giá dầu Diezen là 27.180đ/lít (tăng 1.140đ/lít so với kỳ ngày 04/5). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với xăng E5RON92 ở mức 100 đồng/lít, xăng RON95 ở mức 100 đồng/lít, dầu diesel ở mức 100 đồng/lít. Ngày 23/5, giá xăng A95 III là 31.260đ/lít (tăng 690đ/lít so với kỳ ngày 11/5); giá dầu Diezen là 26.060đ/lít (giảm 1.120đ/lít so với kỳ ngày 11/5). Về trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tiếp tục thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với dầu hỏa ở mức 300 đồng/lít, dầu diesel ở mức 300 đồng/lít, dầu mazut ở mức 400 đồng/lít..

* Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước

CPI chung toàn tỉnh tháng 5/2022 tăng 0,11% so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của một số nhóm hàng sau: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,73%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,35%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,36%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,44%; nhóm giao thông tăng 18,56%; nhóm giáo dục tăng 0,67%; nhóm văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,41%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,49%.

6.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

- Chỉ số giá vàng: Trong tháng 5/2022, giá vàng thế giới biến động mạnh hơn các tháng trước, thị trường vàng trong nước giao dịch điều chỉnh giá tăng, giảm theo giá thị trường thế giới. Giá vàng trong nước so với tháng trước giảm 0,18%, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,51%, so với năm gốc năm 2019 tăng 40,97%. Bình quân 5 tháng năm 2022 chỉ số giá vàng tăng 2,58% so với bình quân cùng kỳ.

- Chỉ số giá đô la Mỹ: So với tháng trước tăng 0,43%, so với cùng kỳ năm trước giảm 2,92%, so với năm gốc năm 2019 tăng 0,09%. Bình quân 5 tháng năm 2022 giá chỉ số giá đô la Mỹ giảm 2,56% so với bình quân cùng kỳ.

7. Một số tình hình xã hội

7.1. Giải quyết việc làm và Bảo hiểm xã hội[3]

Tổ chức “Ngày hội tư vấn hướng nghiệp, giới thiệu việc làm năm 2022” tại huyện Hữu Lũng. Thẩm định, cấp mới 13 giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Tư vấn về việc làm, học nghề, chính sách pháp luật lao động cho 2.952 lượt người, lũy kế từ đầu năm 8.267 lượt người; 138 người đăng ký tìm việc làm; 138 người được giới thiệu việc làm, 89 người nhận được việc làm, lũy kế từ đầu năm 373 người. Số người nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp 1.040 người, 407 người có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng..

Thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Lũy kế đến ngày 12/4/2022 toàn tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 là 116 tỷ đồng. Trong đó:  Hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg là 44 tỷ đồng (Chi trả trực tiếp cho người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 là 34 tỷ đồng; Hỗ trợ tạm dừng đóng, điều chỉnh giảm mức đóng bảo hiểm từ Bảo hiểm xã hội tỉnh và cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất từ CN Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh là 9,9 tỷ đồng).  Hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP, Quyết định số 28/2021/QĐ-TTg: 72 tỷ đồng (Giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho 1.189 đơn vị với 19.547 người lao động, số tiền giảm đóng là 7,6 tỷ đồng; Chi trả trực tiếp cho người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là 64,5 tỷ đồng với 26.704 người lao động).

Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho 3.785 người có công và thân nhân với kinh phí 7,5 tỷ đồng. Lũy kế chi trả: 19.061 lượt người có công, kinh phí: 37,3 tỷ đồng. Tiếp nhận, giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân; người hoạt động kháng chiến tháng là 160 hồ sơ. Lũy kế tiếp nhận và giải quyết hồ sơ người có công với cách mạng và thân nhân: 533 hồ sơ.

7.2. Hoạt động y tế và sức khỏe cộng đồng[4]

Trong tháng 5, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch Covid-19; chủ động thực hiện chiến lược “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để người dân nâng cao ý thức, không chủ quan, lơ là trong phòng, chống dịch Covid-19.

7.2.1. Công tác y tế dự phòng

* Công tác phòng chống dịch Covid-19 tính đến 15h00 ngày 24/5/2022

Từ cuối tháng 4 trở về đây, số ca mắc Covid-19 đã giảm sâu, trung bình mỗi ngày chỉ trung bình 30 – 40 ca. Tính từ ngày 01/01/2022 đến ngày 17/5/2022: có 154.084 F0. Tổng số ca mắc từ năm 2021 đến nay 156.014 ca. Hiện còn điều trị 96 F0 (100% điều trị tại tỉnh), trong đó: 24 người bệnh điều trị tại các cơ sở y tế (25%), 72 người bệnh đang điều trị tại nhà (75%)/11 huyện, thành phố. Đã khỏi bệnh 155.821 ca; tử vong 97 (Tỷ lệ tử vong trên số ca mắc toàn tỉnh là 0,06%; tỷ lệ tử vong trên toàn quốc là 0,4% so với tổng số ca nhiễm).

Đánh giá cấp độ dịch của tỉnh Lạng Sơn theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 218/QĐ-BYT ngày 27/01/2022 của Bộ Y tế (đánh giá ngày 09/5/2022): toàn tỉnh có 200/200 xã, phường, thị trấn: Cấp 1 “Vùng xanh” chiếm 100%; Không có xã nào “Vùng vàng”; “Vùng cam”.

Tình hình tiêm chủng: Lũy kế tổng số liều vắc xin đã tiếp nhận: 1.686.418 liều. Lũy kế đến nay đã tiêm: 1.630.762 liều được cấp. Từ 18 tuổi trở lên: Tỷ lệ tiêm mũi 1 đạt 99,89%; tỷ lệ tiêm 2 mũi đạt 99,86%; tỷ lệ tiêm mũi nhắc lại (mũi 3) đạt 87,54% (Lạng Sơn là 1 trong Top 10 tỉnh trên toàn quốc có tỷ lệ tiêm mũi 3 đạt trên 80%). Trẻ em từ 12-17 tuổi: Tỷ lệ mũi 1 đạt 98,2% trên tổng số 69.808 trẻ cần tiêm; tỷ lệ mũi 2 đạt 92,7% trên tổng số 69.808 trẻ cần tiêm. Trẻ từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi: Lũy kế đã tiêm được 31.150 liều/tổng số 32.700 liều đã cấp cho các huyện, thành phố; tỷ lệ tiêm mũi 1 cho trẻ 5-dưới 12 tuổi đạt 32,34% trên tổng số 96.316 trẻ dự kiến tiêm.

* Công tác phòng, chống dịch bệnh khác

Công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác tiếp tục được kiểm soát; không để dịch lớn xảy ra. Số liệu cộng dồn (tính từ ngày 01/01/2022 – 30/4/2022) so với cùng kỳ năm 2021 có 02 bệnh có số mắc tăng và 11 bệnh có số mắc giảm hoặc tương đương[5]. Các ca bệnh truyền nhiễm phân bố rải rác, không có yếu tố dịch tễ gây dịch hay ổ dịch.

7.2.2. Công tác khám chữa bệnh

Các đơn vị khám, chữa bệnh tổ chức trực 04 cấp, đảm bảo trực 24/24 giờ; đảm bảo cơ số thuốc, dịch truyền, vật tư, hoá chất, hậu cần, bố trí đủ cơ số giường bệnh, phương tiện cấp cứu và cấp cứu ngoại viện để sẵn sàng đáp ứng kịp thời các tình huống có thể xảy ra. Sẵn sàng đảm bảo các điều kiện để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân Covid-19. Kết quả khám và chữa bệnh công lập cả 3 tuyến trong tháng 05: Khám được 100.755 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 11.296 lượt; điều trị ngoại trú cho 18.643 lượt. Cộng dồn 05 tháng: Khám được 486.760 lượt; điều trị nội trú bệnh viện và lưu trú tại trạm y tế xã cho 59.769 lượt; điều trị ngoại trú cho 86.999 lượt. Khám chữa bệnh ngoài công lập: trong tháng khám được 21.673 lượt, trong đó số khám bảo hiểm y tế 15.878 lượt; chuyển viện 265 lượt; tổng số khám sức khỏe 478 lượt.

7.3. Hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch[6]

Tiếp tục thực hiện tốt nghiệp vụ trong hoạt động thư viện. Đưa xe Thư viện lưu động đa phương tiện đi phục vụ tại các điểm trường học, trại tạm giam tại các huyện: Văn Lãng, Cao Lộc, Văn Quan, Lộc Bình, Bắc Sơn nhân kỷ niệm Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2022.

Chiếu phim và tuyên truyền đạt 137 buổi đến 21 lượt xã, 137 lượt thôn, lượt phục vụ trên 10.805 lượt người nghe, xem 959 lượt nội dung tuyên truyền. Thực hiện tốt công tác chiếu phim tại Rạp Đông Kinh với tổng số 07 phim, 24 xuất chiếu, 01 buổi chiếu phim chính trị, 240 lượt người xem. Tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-19 và các nội dung khác: 05 buổi tại 05 lượt xã; 2.500 lượt người nghe tuyên truyền.

Trong tháng 5, xây dựng 04 chương trình Nghệ thuật đắc sắc phục vụ các sự kiện trọng đại của tỉnh, như: Chương trình nghệ thuật biểu diễn chào mừng Lễ trao giải Cuộc thi Vườn cây Hoa Đào đẹp và Cây Đào Đẹp Xứ Lạng gắn với Khai trương đường Hoa Xuân Xứ Lạng 2022; Chương trình nghệ thuật biểu diễn tại Khai mạc Lễ hội Kỳ Hoa Lạng Sơn - 2022; Chương trình nghệ thuật phục vụ Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Đề án bảo tồn, phát triển giá trị cây Đào và tổ chức Lễ hội hoa Đào Xứ Lạng và chương trình nghệ thuật Kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022) và 136 năm Ngày Quốc tế Lao động (01/5/1886 - 01/5/2022); Tổ chức biểu diễn 19 chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ nhiệm vụ chính trị, sự kiện của tỉnh, các ngành, địa phương và vùng sâu, vùng xa.

Hoạt động bảo tàng: Hoàn thành trưng bày bổ sung tài liệu, hiện vật gian chuyên đề: “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn”; tổ chức triển lãm giới thiệu di sản. văn hóa và trình diễn nghề thủ công truyền thống tại Lễ hội Kỳ Hoa Lạng Sơn năm 2022; trưng bày triển lãm lưu động “Lạng Sơn qua các tài liệu thư tịch cổ và một số hình ảnh trường học, các khóa thi triều Nguyễn” tại trường DTNT tỉnh. Tháng 5, Bảo tàng tỉnh mở cửa nhà trưng bày đón tiếp 3.063 lượt khách tham quan.

Lĩnh vực thể dục, thể thao: 200/200 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành Đại hội TDTT cấp xã. 8/11 huyện đã khai mạc Đại hội TDTT cấp huyện (còn 03 huyện hoãn do tình hình mưa lũ). Tổ chức thành công các nội dung thi đấu môn Vovinam Đại hội TDTT tỉnh Lạng Sơn lần thứ IX năm 2022 (từ 21- 23/4/2022 tại nhà thi đấu TDTT tỉnh); chuẩn bị tổ chức giải Bóng đá Thiếu niên Nhi đồng tỉnh Lạng Sơn năm 2022; phối hợp Tổng cục TDTT đăng cai tổ chức giải Wshu trẻ quốc gia tại Lạng Sơn. Đảm bảo công tác phòng, chống dịch bệnh cho các vận động viên trong các buổi tập luyện và trong sinh hoạt.

7.4. Giáo dục

Trong tháng 5, chuẩn bị công tác tuyển sinh đầu cấp THCS, THPT; chuẩn bị các điều kiện tổ chức thi thử Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 lần 2. Triển khai Kế hoạch tổng thể của ngành Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn thích ứng với tình hình dịch Covid-19 bảo đảm tổ chức dạy và học an toàn, chất lượng. Tổ chức Hội thi Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” cho học sinh tiểu học dân tộc thiểu số ở các điểm trưởng lẻ cấp tỉnh năm học 2021-2022. Tổ chức Hội thảo lần 2 định hướng tổ chức dạy học lớp 10 năm học 2022-2023. Tổ chức Hội thi giáo viên mẩm non giỏi cấp tỉnh năm học 2021-2022. Hội thi Giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp THPT năm học 2021-2022. Tổ chức lớp bồi dưỡng ôn tập thi tốt nghiệp môn lịch sử (lần 2). Công tác trật tự, an toàn giao thông, phòng chống thiên tai, phòng cháy chữa cháy trong dạy và học được đảm bảo.

7.5. Trật tự - An toàn giao thông[7]

Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Các cấp chính quyền tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, các lực lượng chức năng thường xuyên bám sát địa bàn, phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông, nhất là trường hợp sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông, kiềm chế tối đa tai nạn giao thông, tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nghiêm túc quy định về an toàn giao thông. Tháng 5 năm 2022, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã xảy ra 3 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm 3 người chết, 02 người bị thương. Cộng dồn 5 tháng đầu năm đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, làm 12 người chết, làm 7 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước giảm 02 vụ tai nạn (-14,29%), giảm 01 người chết, tăng 01 người bị thương.

7.6. Môi trường

Trong tháng 5, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn không có vụ vi phạm môi trường được phát hiện, vì vậy không có vụ vi phạm cần phải xử lý và tiến hành xử phạt, giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm 2021 (tháng 5 năm 2021 có 02 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, xử phạt 20 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm 2022 có 01 vụ vi phạm môi trường được phát hiện, xử phạt 70 triệu đồng. Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 0,51 ha rừng trồng tại xã Đề Thám, huyện Tràng Định.

7.7. Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng 5, trên địa bản tỉnh Lạng Sơn xảy ra mưa lớn trên diện rộng, gây ra lũ trên các sông chính. Diện tích lúa và hoa màu các loại  bị ngập cục bộ 4.962  ha (trong đó: Lúa 1.299,7 ha; hoa rau màu các loại 2.735 ha; ngô 928 ha...); diện tích cây công nghiệp ngắn ngày bị thiệt hại 1.193 ha; diện tích cây công nghiệp dài ngày bị thiệt hại 25,5 ha; cây giống bị thiệt hại (cây hồi) 129.500 cây; 13.941 con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi (trâu, bò 3 con; thỏ 6.200 con; lợn 33 con; dê 20 con; gia cầm 7.685 con). Diện tích thủy sản bị cuốn trôi, ngập khoảng 46 ha; tổng số lồng cá bị thiệt hại là 142 lồng; số lượng cá bị thiệt hại khoảng 27 tấn. 08 đập, hồ chứa bị ảnh hưởng (sạt trượt mái  thượng, hạ lưu, thấm, hư hỏng hệ thống đóng mở nước); 05 trạm bơm bị ngập; 1.200m mương bị sạt lở, vùi lấp. Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai trên 390 tỷ đồng.

[1] Nguồn: Sở Tài chính

[2] Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Lạng Sơn

[3] Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.

[4] Nguồn: Sở Y tế.

[5] Viêm gan Virut khác 25 ca (tăng 22 ca); Sởi 0 ca (giảm 01ca); Tay chân miệng 05 ca (giảm 05 ca); Viêm gan Virut B 0 ca (giảm 05 ca); Viêm gan virut C 0 ca (giảm 01 ca); Bệnh do vi rut Adeno 20 ca (giảm 73 ca); Cúm 1.809 ca (giảm 899 ca); Lỵ Amip 09 ca (giảm 04 ca); Lỵ trực trùng 08 ca (giảm 04 ca); Quai bị 02 ca (giảm 72 ca); Thủy đậu 42 ca (giảm 151 ca); Tiêu chảy 556 ca (giảm 609 ca).

[6] Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh.

[7] Nguồn: Ban An toàn giao thông tỉnh.


BieusolieuLangSonT5va5thang.2022.pdf Tải về

Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác