Trong 9 tháng năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, khi các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, Tỉnh cũng đã tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư. Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh trong 9 tháng năm 2023 đều tăng trưởng hơn so với cùng kỳ năm trước như: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 11,83%; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,69%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 18,34%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tăng 7,12%; tổng doanh thu vận tải và dịch vụ kho bãi tăng 11,61%. Cụ thể kết quả đạt được từng lĩnh vực như sau:
1. Tài chính, tín dụng
1.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 9/2023 được 859,12 tỷ đồng, luỹ kế được 11.216,02 tỷ đồng, đạt 104,81% dự toán Trung ương, đạt 77,46% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 505,50 tỷ đồng, luỹ kế được 4.203,17 tỷ đồng, đạt 68,14% dự toán Trung ương, đạt 64,49% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 450 tỷ đồng, luỹ kế được 3.755,90 tỷ đồng, đạt 68,29% dự toán Trung ương và đạt 64,20% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 447,27 tỷ đồng, đạt 66,96% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 3.328,35 tỷ đồng, đạt 73,42% dự toán Trung ương, đạt 73,36% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 9/2023 được 905,50 tỷ đồng, luỹ kế được 8.164,63 tỷ đồng, đạt 85,51% dự toán Trung ương giao, đạt 61,32% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi xây dựng cơ bản được 553,56 tỷ đồng, luỹ kế được 4.982,06 tỷ đồng, đạt 104,79% dự toán Trung ương giao, đạt 67,99% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 351,94 tỷ đồng, luỹ kế được 3.167,46 tỷ đồng, đạt 67,99% dự toán Trung ương giao, đạt 54,66% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/8/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 22.116 tỷ đồng, tăng trưởng 10,87% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 59,09% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 11.839 tỷ đồng (chiếm 53,53%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.277 tỷ đồng (chiếm 46,47%). Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 3,0-4,25%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 4,7-5,75%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 5,9-6,34%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 22.235 tỷ đồng, tăng trưởng 11,46% so với cuối năm 2022.
Đến ngày 31/8/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 37.425 tỷ đồng, tăng trưởng 7,09% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.607 tỷ đồng (chiếm 52,39% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 17.818 tỷ đồng (chiếm 47,61% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay phổ biến từ 9,7 - 12,6%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2023 dư nợ đạt 37.704 tỷ đồng, tăng trưởng 7,89% so với cuối năm 2022.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 8/2023 là 864 tỷ đồng, chiếm 2,31%/tổng dư nợ; nợ xấu là 416 tỷ đồng, chiếm 1,11%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 448 tỷ đồng, chiếm 51,85%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 9/2023, tỷ lệ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.
Tính đến cuối tháng 8/2023, dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương đạt được kết quả sau:
- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 2.592 tỷ đồng, tăng trưởng 14,24% so với cuối năm 2022.
- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 3.716 tỷ đồng, giảm 1,75% so với cuối năm 2022.
- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 9,2 tỷ đồng, giảm 30,36% so với cuối năm 2022.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 19,36 tỷ đồng, giảm 24,43% so với cuối năm 2022.
- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 202 tỷ đồng, tăng trưởng 26,25% so với cuối năm 2022.
- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 3.737 tỷ đồng, tăng trưởng 8,16% với cuối năm 2022.
- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 22.579 tỷ đồng, tăng trưởng 5,01% so với cuối năm 2022.
- Chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ trên địa bàn tỉnh có dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất 105,89 tỷ đồng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng là 1,09 tỷ đồng.
- Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN có tổng giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (bao gồm gốc và lãi) là 343,94 tỷ đồng, 23 khách hàng.
- Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.
2. Đầu tư và xây dựng
2.1. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 14/9/2023, kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2023 là 23.193,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn vốn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.733 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 15.310 tỷ đồng.
Ước tính tháng 9/2023, vốn đầu tư thực hiện được 2.037,48 tỷ đồng, bằng 106,38% so với tháng trước và bằng 136,45% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 563,92 tỷ đồng, bằng 104,02% so với tháng trước và bằng 163,15% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 169,50 tỷ đồng, bằng 100,83% so với tháng trước và bằng 198,80% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.304,06 tỷ đồng, bằng 108,22% so với tháng trước và bằng 122,75% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 16.606,87 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,83%[1], so với kịch bản của tỉnh đạt 103,79% và đạt 71,60% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 3.836,96 tỷ đồng, bằng 172,74% so với cùng kỳ năm trước và đạt 66,93% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.628,39 tỷ đồng, bằng 231,81% so với cùng kỳ năm trước và đạt 75,72% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 11.141,52 tỷ đồng, bằng 93,42% so với cùng kỳ năm trước và đạt 72,77% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
2.2. Xây dựng
Ước tính quý III/2023, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 1.843,61 tỷ đồng, tăng 2,83% so với quý trước và tăng 17,20% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 3.050,75 tỷ đồng, tăng 2,69% so với quý trước và tăng 15,09% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
+ Công trình nhà ở được 1.495,67 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 49,03% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 9,36% so quý trước và giảm 0,18% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân hiện nay giá các mặt hàng vật liệu xây dựng như: Cát xây dựng, đá các loại, … đồng loạt tăng giá, do vật liệu chủ yếu được tập trung cho các tuyến cao tốc trong khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, nên các hộ dân hạn chế đầu tư xây mới hoặc sửa chữa nhà ở các loại, đợi đến khi vật liệu xây dựng bình ổn lại.
+ Công trình nhà không để ở được 650,77 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,33% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 12,05% so với quý trước và tăng 39,92% so với cùng kỳ. Hiện nay một số công trình lớn đã được khởi công xây dựng từ những năm trước, hiện đang trong giai đoạn lắp đặt, hoàn thiện công trình, mặc dù giá vật liệu xây dựng đang tăng cao, nhưng các nhà thầu vẫn cố gắng thực hiện đúng theo tiến độ công trình đã đề ra như: Công trình xây dựng khu trung tâm thương mại Vị Thanh tại phường IV, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự tính thực hiện trong quý được 172 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được trên 86,87% giá trị công trình; công trình xây dựng khu thương mại thành phố Ngã Bảy, tổng mức đầu tư gói thầu 156,6 tỷ đồng, dự tính thực hiện trong quý được 38,75 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 66,29% giá trị công trình, … Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 809,04 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26,52% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 30,29% so với quý trước và tăng 31,02% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân các dự án công trình kỹ thuật dân dụng tăng so với quý trước là do loại công trình này là những công trình lớn, thời gian hoàn thành thường trên 12 tháng như: Đường cao tốc Cần Thơ - TP HCM, tổng mức đầu tư gói thầu 614 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 20,36 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 8,21% giá trị công trình; Xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 26,4 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 15,71% giá trị công trình; Xây dựng đường giao thông đô thị, tổng mức đầu tư gói thầu 250 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 18 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 16,95% giá trị công trình… Bên cạnh đó, hiện nay đang vào thời điểm thực hiện các công trình xây mới, dặm vá sửa chữa các tuyến đường nông thôn để thực hiện việc xây dựng mục tiêu nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, nên các công ty đã và đang đẩy nhanh tiến độ các gói thầu, để hoàn thành và bàn giao trong thời gian sớm nhất. Vì vậy, giá trị sản xuất các loại công trình trên còn tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ năm trước và trong quý tiếp theo.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 95,27 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,12% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 20,02% so với quý trước và tăng 36,25% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 5.105,17 tỷ đồng, tăng 16,07% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 8.478,50 tỷ đồng, tăng 16,98% so với cùng kỳ năm trước và so với kịch bản tăng trưởng bằng 100,93%. Trong đó:
+ Công trình nhà ở được 4.435,33 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 52,31% trong toàn ngành và tăng 8% so với cùng kỳ năm trước.
+ Công trình nhà không để ở được 1.670,87 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,71% trong toàn ngành và tăng 17,12% so với cùng kỳ.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 2.102,82 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,80% trong toàn ngành và tăng 39,47% so với cùng kỳ năm trước.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 269,48 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,18% trong toàn ngành và tăng 30,33% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân giá trị sản xuất ngành xây dựng ước thực hiện 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước là do hiện nay những dự án khởi công mới được khẩn trương triển khai thực hiện, phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu; các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, góp phần làm giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng trưởng ổn định so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay, tình hình xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào các công trình nhà ở và đường giao thông nông thôn. Riêng một số công trình trọng điểm thuộc ngân sách nhà nước có qui mô lớn thì hầu hết đều do các doanh nghiệp ngoài tỉnh thi công. Do vậy, đề nghị các cấp, các ngành có kế hoạch cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp xây dựng trong tỉnh được thi công, để ngành xây dựng của tỉnh được phát triển bền vững trong những năm tới.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Tính từ ngày 17/8/2023 đến 17/9/2023, toàn tỉnh có 59 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong đó gồm 40 doanh nghiệp tư nhân và Công ty, 19 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn là 182,09 tỷ đồng; có 17 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng (trong đó có 15 doanh nghiệp, công ty), tổng vốn là 83 tỷ đồng; có 6 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 03 công ty), tổng vốn là 6,68 tỷ đồng.
Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có 613 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (trong đó có 372 Doanh nghiệp và Công ty, còn lại 241 đơn vị trực thuộc), tổng vốn là 1.956,48 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 13,42% về số lượng doanh nghiệp và về số vốn doanh nghiệp đăng ký giảm 55,29%); có 169 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 1.088,48 tỷ đồng; có 89 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 185,83 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 16,04% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 63,01%), Nguyên nhân giải thể do kinh doanh không hiệu quả.
Xu hướng sản xuất kinh doanh: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 260 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 45% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất quý tiếp theo tăng hơn so với quý hiện tại, có trên 30% doanh nghiệp đánh giá quý tiếp theo không có biến động nhiều so với quý hiện tại và còn lại 25% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất quý tiếp theo gặp khó khăn, sản lượng không tăng so với quý hiện tại. Vì vậy, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định so với cùng kỳ.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Hiện tại ngành Nông nghiệp tiếp tục tập trung chỉ đạo sản xuất vụ lúa Thu đông 2023, phấn đấu đạt các chỉ tiêu về diện tích, năng suất và sản lượng theo kế hoạch đề ra. Chỉ đạo đơn vị chuyên môn cấp huyện phân công cán bộ kỹ thuật theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, sâu bệnh hại để kịp thời thông báo, hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật kịp thời trên tất cả các loại cây trồng. Tiếp tục đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất rau màu, cây ăn quả, đặc biệt các cây trồng có lợi thế cạnh tranh cao, sản xuất theo chuỗi giá trị, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
4.1. Nông nghiệp
4.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện đã thu hoạch được 74.908,9 ha, giảm 1,91% (bằng 1.459,9 ha) so với cùng kỳ. Năng suất sơ bộ đạt 60,36 tạ/ha, giảm 1,13% (bằng 0,69 tạ/ha) so với cùng kỳ. Diện tích lúa còn lại đang ở giai đoạn trổ chín tập trung ở huyện Long Mỹ. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu là các giống: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, còn lại các giống khác chiếm 3,5% …
Lúa Thu đông năm 2023: Đã xuống giống được 26.902 ha, đạt 109,8% kế hoạch tỉnh (24.500 ha), giảm 23,92% (bằng 8.459,8 ha) so với cùng kỳ. Hiện lúa đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng, sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18, OM5451, ...
Mía niên vụ 2022-2023: Đã xuống giống được 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 22 ha nhiễm sinh vật gây hại (giảm 13 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng, phân bố ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Hiện đã thu hoạch được 1.414 ha, giảm 9,3% (bằng 145 ha) so với cùng kỳ. Chủ yếu thu hoạch để bán mía chục. Giá bán mía nước trung bình từ 2.200-2.600 đồng/kg (Roc 16); 2.000-2.200 đồng/kg (KK3). Diện tích mía còn lại đang ở giai đoạn 8-9 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng 2.260,43 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 1,8% (bằng 39,9 ha); năng suất đạt 60,57 tạ/ha, giảm 9,27% (bằng 6,19 tạ/ha); sản lượng được 12.593,1 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 8,12% (bằng 1.112,28 tấn).
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 20.562,14 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 10,9% (bằng 2.020,18 ha); Ước sản lượng được 257.386,76 tấn, tăng 18,24% (bằng 39.700,94 tấn). Thực hiện theo kế hoạch của ngành chức năng về việc mở rộng diện tích sản xuất rau màu, nuôi thủy sản trên ruộng lúa năm 2023, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch ước tăng mạnh so với cùng kỳ.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của tỉnh 9 tháng năm 2023 so cùng kỳ:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.113,15 ha, tăng 0,84% (bằng 26 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 9 tháng ước được 25.368,41 tấn, đạt 55,27% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 5,63% (bằng 1.352,98 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.700,14 ha, tăng 2,16% (bằng 36 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 9 tháng ước được 11.179,12 tấn, đạt 62,11% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,56% (bằng 588,57 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.747,94 ha, tăng 2,7% (bằng 256,7 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 9 tháng được 83.189,26 tấn, đạt 86,66% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 35,04% (bằng 21.583,92 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 3.075,14 ha, tăng 9,7% (bằng 271,94 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 9 tháng được 23.619,62 tấn, đạt 50,47% so kế hoạch năm (46.800 tấn) và tăng 6,24% (bằng 1.386,46 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất tăng.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 731,72 ha, tăng 1,75% (bằng 12,61 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 9 tháng được 6.160,79 tấn, đạt 66,39% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,27% (bằng 417,58 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
4.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt … Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến tháng 9/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.258 con, giảm 12,33%[2] (bằng 177 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 4.017 con, tăng 9,37% (bằng 344 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.338 con, tăng 1,19% (bằng 1.705 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 102.667 con, tăng 1,48% (bằng 1.502 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.230,46 ngàn con, tăng 2,09% (bằng 86,69 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 1.562,34 ngàn con, tăng 5,59% (bằng 82,75 ngàn con) so với cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
4.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Ước tính tháng 9/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung được 55,24 ha, tăng 2,09% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước được 4.064 m3, tăng 3,30% và sản lượng củi khai thác được 3.029 ste, tăng 4,05% so với cùng kỳ.
Ước tính 9 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung được 185,22 ha, tăng 0,80% so với cùng kỳ. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước được 1.436,82 nghìn cây, so với cùng kỳ tăng 1,59% (bằng 22,42 nghìn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 11.738 m3, tăng 2,65% (bằng 303 m3). Sản lượng củi khai thác ước được 60.822 ste, tăng 0,43% (bằng 263 ste) so với cùng kỳ.
4.3. Thủy sản
Trong tháng 9/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 820,92 ha, tăng 117,18% (bằng 442,93 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 10.775 ha[3], đạt 97,07% so kế hoạch năm và kế hoạch mở rộng diện tích nuôi thủy sản trên ruộng lúa (11.100 ha) và tăng 24,76% (bằng 2.138,73 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng mạnh so với cùng kỳ là do địa phương vận động người dân chuyển đổi diện tích lúa vụ 3 (vụ lúa Thu đông) kém hiệu quả sang nuôi thủy sản.
Ước tính tháng 9/2023, tổng sản lượng thủy sản được 10.756,33 tấn, tăng 5,29% so với cùng kỳ. Chia ra: Sản lượng thuỷ sản khai thác được 97,34 tấn, giảm 1,13%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng được 10.658,99 tấn, tăng 5,35% so với cùng kỳ.
Ước tính 9 tháng năm 2023, tổng sản lượng thủy sản được 55.994,76 tấn, đạt 65,11% so kế hoạch năm (86.000 tấn) và tăng 5,70%[4] (bằng 3.020,21 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác được 2.027,28 tấn, giảm 1,26% (bằng 25,96 tấn) so cùng kỳ, do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng được 53.967,48 tấn, đạt 64,79% so kế hoạch năm (83.300 tấn) và tăng 5,98% (bằng 3.046,17 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 3.207,71 tấn, tăng 4,15% (bằng 127,86 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 848,69 tấn, tăng 60,16% (bằng 318,78 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
5. Tình hình sản xuất công nghiệp
Trong những tháng gần đây, lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có dấu hiệu phục hồi với nhiều dự án mới đi vào hoạt động và nhiều chính sách hỗ trợ kêu gọi đầu tư, cũng như tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội.
Vì vậy, ước thực hiện tháng 9/2023 giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.344,02 tỷ đồng, tăng 3,15% so với tháng trước và tăng 14,83% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành được 5.864,77 tỷ đồng, tăng 2,95% so với tháng trước và tăng 23,27% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh, đang có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại sau đợt ảnh hưởng kinh tế thế giới suy thoái vào đầu năm, nên đã làm sản lượng một số sản phẩm có giá trị lớn tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất nước mắm được 12,11 triệu lít, tăng 27,07%; sản lượng gạo xay xát được 7.850 tấn, tăng 20,58%; sản lượng nước uống có hương vị hoa quả được 15,71 triệu lít, tăng 8,60%; sản lượng giày, dép có đế mũ bằng da được 1.536 nghìn đôi, tăng 40,03%; sản lượng giấy và bìa khác được 35.000 tấn, tăng 71,12%, ... Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp ước tháng 9/2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 28.226,06 tỷ đồng, tăng 10,87% so với cùng kỳ năm trước và đạt 72,41% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành được 48.706,77 tỷ đồng, tăng 20,79% so với cùng kỳ năm trước, đạt 98,79% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng 2023 của tỉnh và đạt 75,25% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất ước được 10.808,59 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22,19% trong toàn ngành và tăng 134,64% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 348 doanh nghiệp, hợp tác xã và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất ước được 29.417,95 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,40% trong toàn ngành và tăng 8,19% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 11 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất ước được 8.480,22 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,41% trong toàn ngành và giảm 0,53% so với cùng kỳ.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 9/2023, Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 1,46% so với tháng trước và tăng 12,30% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,50% so với tháng trước và tăng 9,18% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 1,05% so với tháng trước và tăng 78,21% so với cùng kỳ (Nguyên nhân là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 9 trên 541 triệu kwh, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 87,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm trước các tổ máy mới vận hành chính thức, nên sản lượng đạt chỉ 289 triệu kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số sản xuất ngành này so với cùng kỳ năm trước); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,42% so với tháng trước và tăng 18,32% so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,69% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn mức tăng 7,05% của 9 tháng năm 2020 so với cùng kỳ; mức tăng 3,30% của 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ, nhưng thấp hơn mức tăng 16,98% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Trong đó:
- Ngành chế biến, chế tạo: Có trên 260 doanh nghiệp, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,06% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 7,05% của 9 tháng năm 2020 so với cùng kỳ, mức tăng 3,21% của 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ, nhưng thấp hơn mức tăng 14,07% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do những tháng đầu năm 2023 doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế bến, chế tạo chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như: Sự phục hồi chậm và khó khăn của các đối tác thương mại lớn; diễn biến căng thẳng Nga - Ukraina, cũng như giá xăng, dầu biến động liên tục, đã làm lạm phát đạt mức kỷ lục tại nhiều nước; Giá nhiều mặt hàng trên thế giới tiếp tục có xu hướng tăng, gây nhiều áp lực đến giá nguyên, vật liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn do nhu cầu của thị trường nước ngoài có xu hướng giảm; nhà nhập khẩu chậm thanh toán; lượng hàng tồn kho tăng ở một số ngành xuất khẩu là chủ yếu. Các yếu tố trên, đã làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh có xu hưởng tăng trưởng chậm hơn mức tăng 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ. Cụ thể như:
+ Chỉ số sản xuất ngành sản xuất chế biến thực phẩm, giảm 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do ngành chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản, chiếm tỷ trọng trên 48% về giá trị sản xuất theo giá hiện hành trong ngành chế biến thực phẩm và chỉ số sản xuất giảm 15,55% so với cùng kỳ; chế biến và bảo quản rau quả giảm 2,74% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô giảm 0,96% so với cùng kỳ. Ở chiều ngược lại một số ngành sản xuất sản phẩm phục vụ thị trường trong nước vẫn tăng trưởng ổn định như: Sản xuất mì ống, mì sợi và sản phẩm tương tự tăng 21,18% so với cùng kỳ; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 7,55% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước.
+ Chỉ số sản xuất trang phục tăng 16,82% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 178 cơ sở cá thể công nghiệp hoạt động trong ngành này và chiếm tỷ trọng trên 52,08% về giá trị sản xuất theo giá hiện hành trong ngành sản xuất trang phục, từ đầu năm đến nay các cơ sở nhận được nhiều hợp đồng gia công, lắp ráp quần áo cho các doanh nghiệp lớn, nên giá trị sản xuất khu vực cá thể tăng trên 30,86% so với cùng kỳ. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành sản xuất trang phục tăng 16,82% so với cùng kỳ.
+ Chỉ số sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 2,9% so với cùng kỳ. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu năm chi phí nhập khẩu nguyên, vật liệu tăng cao, doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình tiêu thụ, do giá thành sản phẩm tăng, nên doanh nghiệp giảm sản lượng sản xuất so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2023 giảm so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất và phân phối điện 9 tháng năm 2023 tăng 165,21% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng điện sản xuất được 4.539,34 triệu kwh, tăng 194,84% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 10.617,43 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,58% trong ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí. Nguyên nhân là do Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã hoạt động ổn định từ tháng 6 năm 2022 đến nay, nên chỉ số sản xuất ngành này tăng đột biến trong những tháng đầu năm, sang quý III/2023 sản lượng sản xuất tăng trưởng chậm lại so với những tháng đầu năm. Nhưng tính chung 9 tháng năm 2023 sản lượng sản xuất vẫn tăng rất cao và đạt kịch bản tăng trưởng của tỉnh đã đề ra.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,30% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang hoạt động ổn định từ đầu năm đến nay, nên đã làm chỉ số sản xuất ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 19,91% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm cho ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng cao so với cùng kỳ.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh trong 9 tháng năm 2023 tăng so cùng kỳ như: Sản lượng nước mắm tăng 443,49%; sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 7,55%; nước uống có hương vị hoa quả tăng 8,51%; sản lượng điện sản xuất tăng 194,84%. Ở chiều ngược lại một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh giảm 28,43%; sản lượng sản xuất bia đóng chai giảm 29,43%; sản lượng sản xuất giày dép các loại giảm 4,97%.
Tình hình tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo: Tính đến thời điểm tháng 9/2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 16,23% so với tháng trước và giảm 28,67% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023 giảm 5,19% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giảm chủ yếu ở các nhóm hàng như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản giảm 20,08%; gạo đã xát toàn bộ hoặc sơ bộ giảm 3,47%; sản xuất đường RS giảm 59,14%; sản xuất đồ uống giảm 32,14%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 4,92%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 4.36%;...Vì vậy, đã làm chỉ số tiêu thụ toàn ngành giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ước tính tại thời điểm 30/9/2023, chỉ số tồn kho giảm 7,68% so với cùng cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: Thủy hải sản xay nhỏ hoặc dạng mắm đặc giảm 78,41%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 6,61%; sản xuất đồ uống giảm 81,66%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 13,19%;... Như vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng, tình hình tiêu thụ giảm, chỉ số tồn kho giảm nhẹ cho thấy các doanh nghiệp có dấu hiệu phục hồi, mạnh dạn đầu tư sản xuất hàng hóa, chuẩn bị xuất khẩu phục vụ thị trường dịp Noel sắp đến.
Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/9/2023, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 1,71% so với tháng trước và giảm 11,40% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng giảm 3,14% so với cùng kỳ. Trong đó, 9 tháng năm 2023 một số ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm nhiều hơn mức giảm chung toàn ngành so với cùng kỳ như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 11,25%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 21,26%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 9,09%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 1,94%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 20,28%;... Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động chung của toàn tỉnh trong 9 tháng năm 2023 giảm so với cùng kỳ.
Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra như: Công ty TNHH Thức ăn Tôm Xanh Minh Phú (sản xuất thức ăn chăn nuôi); Công ty CP Tập đoàn Masan (sản xuất mì ống, bún, gia vị các loại …), Công ty TNHH MTV Sunpro Steel (sản xuất thép) … để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
6. Hoạt động thương mại, dịch vụ
6.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang diễn ra hoạt động tựu trường, khai giảng của các khối lớp ở các cấp học, cùng với đó có nhiều sự kiện văn hóa được tổ chức để chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh như: Chương trình “Festival Quốc tế ngành hàng lúa gạo” với hơn 1.500 đại biểu tham dự trong và ngoài tỉnh, đặc biệt tổ chức sự kiện văn hóa “Festival Áo Bà ba - Hậu Giang 2023 được tổ chức với quy mô lớn với nhiều hoạt động diễn ra như: Biểu diễn nghệ thuật, thời trang, ca nhạc, triễn lãm ảnh, … thu hút được sự tham gia đông đảo của các thành phần đại biểu và quần chúng hưởng ứng. Do đó, các hoạt động kinh doanh bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú và ăn uống cũng như các hoạt động dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng được dự báo sẽ diễn ra sôi động hơn. Uớc tính tháng 9/2023, tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ thực hiện được 4.719,79 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,16% và so với cùng kỳ năm trước tăng 24,43%[5]. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.444,88 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,72% và so với cùng kỳ năm trước bằng 125,03%. Thị trường hoạt động bán lẻ của các nhóm hàng hóa quan trọng chủ lực trên địa bàn trong tháng có nhiều biến động. Các nhóm hàng lương thực thực phẩm thiết yếu chú ý nhất là mặt hàng gạo có diễn biến khó lường trên thị trường cùng các nhóm hàng xăng dầu, sắt, thép, vật liệu xây dựng và nhóm hàng vàng bạc, đá quý cũng có mức biến động lớn trên thị trường, giá bán liên tục thay đổi lên xuống không ổn định. Hầu hết các nhóm hàng chủ yếu đều có mức tăng so với cùng kỳ, bình quân chung tăng trên 10%. Trong đó: Nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng 33,22% chủ yếu do giá gạo biến động tăng khoảng 10% cùng một số mặt hàng rau, quả, tiêu dùng thiết yếu khác cũng có mức tăng tương tự; vật phẩm giáo dục tăng 15,60%; đồ dùng dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 31,32%; ô tô tăng 171,15% nhờ vào chính sách kích cầu giảm lệ phí trước bạ cùng các gói khuyến mãi của các cửa hàng kinh doanh; một số nhóm hàng hóa khác tăng 15,40%; ... Vì các nhóm hàng tăng giá trong tháng đều là những mặt hàng thiết yếu nên nhu cầu tiêu dùng không có nhiều biến động, do đó tổng doanh thu bán lẻ vẫn có mức tăng so với tháng trước và tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 588,94 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 3,59% và so với cùng kỳ năm trước tăng 26,61%. Trong tháng trên địa bàn diễn ra nhiều sự kiện văn hóa, nghệ thuật tập trung nhiều người cùng với việc khai giảng năm học mới số lượng học sinh trở lại trường đông nên hoạt động kinh doanh của các cơ sở ăn uống được dự báo sẽ trở nên đông khách và doanh thu có thể tăng hơn so với tháng trước. Trong đó:
+ Ngành lưu trú ước được 23,61 tỷ đồng, so tháng trước tăng 3,74% và so với cùng kỳ tăng 35,29%. Sự kiện diễn ra dài ngày số lượng đại biểu về dự nhiều nên nhu cầu lưu trú tại khách sạn, nhà nghỉ trong tháng sẽ tăng.
+ Ngành ăn uống ước được 565,32 tỷ đồng, so tháng trước tăng 3,58% và so cùng kỳ năm trước tăng 26,27%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) được dự tính có mức tăng nhẹ giá trị thực hiện được 685,97 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 3,19% và so với cùng kỳ năm trước tăng 19,79%. Các ngành dịch vụ chủ yếu đóng góp vào mức tăng cao của cùng kỳ là dịch vụ hành chính hỗ trợ tăng 24,66%, y tế tăng 73,48% và dịch vụ khác phục vụ gia đình và cá nhân tăng 89,21%. Tết Trung thu sắp đến rơi trọn trong tháng nên các hoạt động dịch vụ vui chơi giải trí sẽ được các cơ sở kinh doanh cung cấp nhiều hơn để phục vụ nhu cầu vui chơi của người dân và các em thiếu nhi. Cùng với đó là lễ khai giảng năm học mới cũng được thực hiện trong tháng nên các em học sinh, giáo viên bắt đầu học và giảng dạy, do đó các dịch vụ phục vụ công tác giảng dạy giáo dục được dự báo sẽ tăng so với tháng trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 41.158,98 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,34%, so với kế hoạch năm đạt 77,69% và so với kế hoạch tăng trưởng của tỉnh bằng 103,14%. Nhìn chung cơ cấu của các nhóm ngành đóng góp vào sự tăng trưởng chung của hoạt động Thương mại và Dịch vụ vẫn không thay đổi, giữ được sự ổn định các ngành chủ lực vẫn có quy mô doanh thu và tốc độ tăng ở mức cao so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, doanh thu hoạt động bán lẻ hàng hóa chiếm tỷ trọng cao 74,53% tổng doanh thu thương mại dịch vụ và là ngành chủ lực đóng góp chủ yếu vào tốc độ tăng trưởng chung. Tốc độ tăng 9 tháng ngành bán lẻ đạt mức 18,08%, đóng góp 13,56% vào tốc độ chung. Các hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và một số nhóm ngành dịch vụ tiêu dùng khác còn lại vẫn có tỷ trọng thấp chỉ chiếm 25,47%, trong 9 tháng tiếp tục giữ được đà tăng trưởng cao so với cùng kỳ ở mức 24,76% và 14,54% và đóng góp thấp vào tốc độ tăng chung lần lượt ở mức 2,16% và 2,47%. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 30.676,04 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,08%6. Hoạt động thương mại của các nhóm hàng bán lẻ được xem là có sự biến động nhiều so với các lĩnh vực khác do quy mô về số lượng của các cơ sở cá thể và doanh nghiệp lớn. Giá trị doanh thu của các cơ sở này diễn ra trong 9 tháng cũng không được ổn định, nhiều cơ sở có mức tăng cao đột biến do có nhiều đơn hàng, cũng có nhiều cơ sở có doanh thu giảm mạnh do ảnh hưởng các yếu tố giá cả thị trường, yếu tố cung cầu hàng hóa đang kinh doanh. Nhìn chung các cơ sở kinh doanh biến động không ngừng, trong 9 tháng qua có khá nhiều doanh nghiệp đã ngừng hoạt động giải thể hoặc chuyển địa điểm hoạt động kinh doanh khỏi địa bàn tỉnh khiến giá trị doanh thu ở một số nhóm ngành vẫn chưa phục hồi và có mức giảm so với cùng kỳ năm trước. Nhưng về tổng thể, tổng giá trị doanh thu bán lẻ trong 9 tháng năm 2023 vẫn có mức tăng trưởng tương đối cao, hầu hết các nhóm hàng giảm so với cùng kỳ là những nhóm hàng có giá trị doanh thu thấp và chiếm tỷ trọng không cao trong tổng mức bán lẻ nên không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung. Tốc độ tăng của ngành bán lẻ đã tăng thêm 3,2% lên 18,08% so với mức 14,88% của 6 tháng đầu năm 2023.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.897,13 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,76%[7]. Hoạt động 9 tháng ngành lưu trú, ăn uống vẫn có sự tăng trưởng ổn định. Doanh thu của 2 hoạt động kinh doanh này đều tăng cao so với cùng kỳ, nguyên nhân do cùng thời điểm 2022 còn ảnh hưởng một phần dịch bệnh hoạt động ăn uống lưu trú chưa hồi phục hoàn toàn, giá trị doanh thu tạo ra còn thấp; mặt khác tỷ lệ lạm phát tăng do ảnh hưởng từ sự tăng trưởng kinh tế và các yếu tố bên ngoài về chuỗi cung ứng hàng hóa đã đẩy giá bán các sản phẩm ăn uống và giá dịch vụ lưu trú tăng thêm so với năm 2022 (tăng khoảng 14 - 16%). Riêng hoạt động lưu trú các cơ sở kinh doanh lưu trú mới (chi nhánh hệ thống khách sạn SOJO) với qui mô lớn đã chính thức đi vào hoạt động và có lượng khách nhất định đã góp phần thúc đẩy doanh thu tăng cao hơn so với cùng kỳ.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 5.585,80 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 14,54%. Qua 9 tháng, hầu hết tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ so với cùng kỳ năm trước đều ít biến động lớn, các ngành chiếm tỷ trọng lớn đều có mức tăng cao. Riêng dịch vụ bất động sản có sự biến động lớn tăng giảm đột biến giữa các tháng tính từ đầu năm đến nay, tổng giá trị doanh thu qua 9 tháng được 726,72 tỷ đồng, vẫn giảm 18,38% dù trong quý III/2023 doanh thu có tăng cao. Nguyên nhân do thị trường giao dịch chưa thật sự khởi sắc hoàn toàn mặc dù đã có tín hiệu tích cực trong những tháng gần đây. Giá trị giao dịch đất nền và các sản phẩm bất động sản khác của các doanh nghiệp lớn vẫn ở tình trạng suy giảm, có doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn 50% từ đầu năm đến nay không có doanh thu.
6.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 9/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 90,07 triệu USD so với tháng trước bằng 90,63% và so với cùng kỳ năm trước bằng 91,17%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 69,61 triệu USD, so với tháng trước bằng 87,54% và so với cùng kỳ năm trước bằng 106,20%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 20,46 triệu USD, so với tháng trước bằng 102,99% và so với cùng kỳ năm trước bằng 61,55%.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 889,52 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 107,12%, so với kế hoạch năm đạt 78% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 105,47%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 584,26 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,13%, so với kế hoạch năm đạt 79,27% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 106,67%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 273,15 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 98,71%, so với kế hoạch năm đạt 75,82% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 103,70%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,18 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 22%, so với kế hoạch năm đạt 19,76% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 28,23%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 31,93 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 100,44%, so với kế hoạch năm đạt 75,78% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 101,04%.
Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp 9 tháng năm 2023 có sự tăng trưởng khá, ở mức khoảng 7,12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (trong nước chiếm 59,59%, doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 40,41% tổng giá trị chung). Về mức tăng trưởng ở mỗi khu vực, mặc dù số lượng doanh nghiệp FDI ít hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước nhưng giá trị xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp tạo ra cũng gần tương đương so với doanh nghiệp trong nước.
Về thị trường xuất khẩu trong 9 tháng năm 2023, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu tăng thêm 8 quốc gia (bằng 111,94% so cùng kỳ). Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp không có sự thay đổi nhiều so với năm trước, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là Châu Á (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) chiếm giá trị lớn nhất, Châu Mỹ (trong đó khu vực Bắc Mỹ) là chủ yếu, Châu Âu khu vực các nước khối liên minh Châu Âu (EU) là chủ yếu. Giá trị xuất khẩu của các khu vực này có sự tăng giảm lẫn nhau so với cùng kỳ năm trước nhưng nhìn chung mức tăng vẫn chiếm ưu thế nhiều hơn. Cụ thể, giá trị xuất khẩu của các khu vực trên so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: khu vực Châu Á tăng 7,72% (chiếm tỷ trọng 49,84%), Châu Mỹ tăng 43,11% (chiếm tỷ trọng 31,81%), khu vực Châu Âu giảm 29,87% (chiếm tỷ trọng 11,82%) đây là khu vực xuất khẩu có giá trị giảm nhiều nhất trong 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước; còn lại là các khu vực khác (chiếm tỷ trọng 6,53%).
Qua 9 tháng năm 2023 một số thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng lớn có quan hệ giao thương với các doanh nghiệp trên địa bàn có mức tăng trưởng trở lại so với cùng kỳ năm trước, trong đó thị trường Hoa Kỳ tăng 63,51%, Singapo tăng 67%, Đài Loan tăng 319,24%. Tuy nhiên thị trường Trung Quốc giảm 20,50% so với cùng kỳ, Đức giảm 17,35%, Nhật Bản giảm 6,82% ngoài các thị trường trên thì tổng chung tất cả các thị trường còn lại vẫn có mức tăng trưởng. Do đó, đã giúp tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa trực tiếp chung 9 tháng năm 2023 vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 12,13%.
Về cơ cấu nhóm hàng trong 9 tháng năm 2023, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vẫn là ba nhóm hàng: Thủy hải sản chế biến, chiếm tỷ trọng khoảng 27,80% tổng giá trị xuất khẩu chung; giày thể thao, chiếm 28,63%; giấy thành phẩm, chiếm 9,18%, hàng hoá khác chiếm 23,69%. So với cùng kỳ năm 2022, cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu trên địa bàn có sự thay đổi nhưng không lớn (tăng nhóm hàng hóa khác, giảm nhóm hàng thủy sản, giày thể thao và giấy thành phẩm). Về nhập khẩu, cơ cấu các nhóm hàng cũng không có sự thay đổi đáng kể so với cùng kỳ năm 2022. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là các nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ cho sản xuất, xăng dầu các loại, hóa chất và một số loại hàng hóa phụ khác.
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung 9 tháng năm 2023, ước tính xuất siêu 311,12 triệu USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 244,314 triệu USD).
6.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Ước tính tháng 9/2023, tổng doanh thu vận tải, kho bãi thực hiện được 151,42 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,63% và so với cùng kỳ năm trước bằng 110,81%. Tình hình hoạt động kinh doanh vận tải tháng 9 của các cơ sở cá thể và doanh nghiệp trên địa bàn có sự tăng trưởng khá 4,63% so với tháng trước. Mức tăng trong tháng chủ yếu được đóng góp từ hoạt động vận chuyển hàng hóa đường bộ tăng 5,60% và dịch vụ kho bãi, logistic tăng 6,64%, các loại hình hoạt động vận tải khác còn lại về tổng thể vẫn giữ được đà tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng bình quân khoảng hơn 2%. Vì vậy, tổng doanh thu vận tải kho bãi tiếp tục giữ vững đà tăng. Cụ thể:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 82,72 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,56% và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,36%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,05 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,33% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,41%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 38,65 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 106,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 116,04%.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 1.238,12 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,61%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 660,53 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 116,67%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 272,84 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,77%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 304,75 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,16%.
Tình hình hoạt động vận tải và các loại hình dịch vụ kho bãi đến thời điểm 9 tháng năm 2023 vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ, tốc độ tăng giữa các tháng giữ được sự ổn định và quy mô doanh thu tăng lên qua từng tháng, bình quân được 137,5 tỷ đồng/tháng so với mức 123,2 tỷ đồng/tháng của năm 2022. Trong đó, doanh thu vận tải khu vực doanh nghiệp ngày càng giữ vị trí vai trò quan trọng trong tổng thể ngành vận tải. Tổng doanh thu 9 tháng của cả khu vực ước được 759,90 tỷ đồng, tăng 7,49% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng đến hơn 61% tổng doanh thu chung, cá thể chỉ chiếm gần 39%. Riêng về lĩnh vực dịch vụ vận tải logistic với nổ lực kêu gọi đầu tư của tỉnh xây dựng Hậu Giang trở thành trung tâm logistic trong tương lai, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng trọng điểm thì hiện nay số lượng các doanh nghiệp có quy mô lớn hoạt động trong lĩnh vực này tham gia đầu tư trên địa bàn được gia tăng thêm ngày càng nhiều hơn so với các năm trước. Tính đến 9 tháng năm 2023 tổng doanh thu dịch vụ vận tải đã có quy mô 289,60 tỷ đồng, hiện đã chiếm tỷ trọng 23,39% trong tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi. Với sự quan tâm thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, trong tương lai doanh thu hoạt động logistic nói riêng và khu vực dịch vụ vận tải nói chung sẽ có đóng góp đáng kể hơn nữa vào sự phát triển kinh tế xã hội chung trên địa bàn.
6.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 9/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 477,28 nghìn tấn hàng hóa các loại (80.157,70 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,49% (103,35%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 116,61% (123,38%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 117,55 nghìn tấn (18.455,06 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,46% (104,64%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 129,96% (121,01%).
- Đường sông thực hiện được 359,73 nghìn tấn (61.702,64 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,17% (102,97%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,83% (124,11%).
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 4.343,41 nghìn tấn hàng hóa các loại (706.022,25 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 124,81% (128,83%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 1.037,89 nghìn tấn (165.625,90 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 147,38% (142,38%).
- Đường sông thực hiện được 3.305,53 nghìn tấn (540.396,35 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 119,09% (125,18%).
6.3.2. Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 9/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.371,68 nghìn lượt hành khách (49.179,27 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 101,19% (102,04%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 94,68% (105,88%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 207,69 nghìn lượt hành khách (42.546,55 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,32% (102,20%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,30% (108,23%).
- Đường sông vận chuyển được 2.163,98 nghìn lượt hành khách (6.632,72 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,09% (101,03%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,21% (92,93%).
Ước thực hiện 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 21.882,00 nghìn lượt hành khách (435.247,32 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,88% (109,33%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 1.795,58 nghìn lượt hành khách (374.456,60 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 110,97% (110,82%).
- Đường sông vận chuyển được 20.086,43 nghìn lượt hành khách (60.790,72 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,29% (100,97%).
7. Các vấn đề về xã hội
7.1. Giáo dục
Mạng lưới trường học: Toàn ngành có 321 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 88 trường (có 05 trường tư thục); tiểu học có 148 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh; có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Quy mô học sinh sau khai giảng năm học 2023-2024: Tổng số học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông là 153.869/158.100, đạt 97,32%, cụ thể:
- Giáo dục Mầm non: Nhà trẻ là 2.021/2.900, đạt tỉ lệ 69,68%; mẫu giáo là 20.043/24.700, đạt tỉ lệ 81,14%.
- Giáo dục phổ thông: Tiểu học là 62.557/65.500 đạt tỉ lệ 95,50%; Trung học cơ sở là 48.364/45.550, đạt tỉ lệ 106,17%; Trung học phổ thông là 20.844/19.450, đạt tỉ lệ 107,16%.
Tình hình hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học trong tháng như:
- Hướng dẫn dạy học thí điểm giáo dục STEM trong hoạt động giáo dục tiểu học năm học 2023-2024.
- Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2023-2024 các cấp học.
- Tổng duyệt sản phẩm tranh vẽ tham dự Cuộc thi Vẽ tranh công nghệ AI - Hậu Giang của em.
- Hướng dẫn các đơn vị tham gia tổ chức kỳ thi chọn đội tuyển dự thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2023 – 2024.
7.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền chuyên đề toàn khóa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; tiếp tục tuyên truyền chào mừng kỷ niệm 78 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2023) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 – 02/9/2023), … Kết quả: in và lắp mới 4.203m2 pano, 3.100 cờ các loại, 197 băng rol. Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với 80 buổi, phục vụ 41.650 lượt người xem, tổ chức 60 lượt phóng thanh cổ động. Phòng Phát hành phim và chiếu bóng thực hiện ghi hình các sự kiện của ngành, tổ chức chiếu phim lưu động 18 buổi, phục vụ 5.440 lượt người xem.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm 2.500 quyển sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện và trưng bày tại gian triển lãm kỷ niệm 78 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm các chủ đề: Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9; Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Di chúc của Người; Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; sách thiếu nhi; sách mới các lĩnh vực … từ ngày 30/8 đến 01/9/2023 tại Khu Di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ (xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ), thu hút trên 2.000 lượt người xem. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện, trong tháng 9/2023 phục vụ 14.477 lượt người truy cập tra cứu (nâng tổng số lên 123.187 lượt) và đọc sách với 28.954 lượt sách (nâng tổng số lên 246.374 lượt).
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức triển lãm 06 cuộc phục vụ Họp diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh Hậu Giang, khai mạc Hội thi “Tư tưởng Hồ Chí Minh – Ánh sáng soi đường cho tuổi trẻ Hậu Giang năm 2023; … với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng An ninh tỉnh Hậu Giang năm 2022; Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 19.560 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Đến thời điểm hiện tại, đã tổ chức xong 21/27 môn tại Đại hội Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX – Hậu Giang năm 2023: Bóng chuyền Bãi biển nữ, KickBoxing, Boxing, Taekwondo, Võ Cổ truyền, Thể hình, Fitness, Võ cổ truyền, Bóng đá nam, Canoeing, Judo, Cử tạ, Quần vợt, Điền kinh, Cờ vua, Jujitsu, Kurash, Việt dã, Bóng chuyền nam U22, Bóng bàn, Billiards, Bắn cung (trong đó 06 môn tổ chức tại Hậu Giang: Kickboxing, Boxing, Judo, Quần vợt, Kurash, Việt dã; các môn còn được tổ chức tại các tỉnh trong Khu vực ĐBSCL). Hậu Giang tham gia 15 môn, đạt 49 Huy chương vàng (HCV), 47 Huy chương bạc (HCB), 89 Huy chương đồng (HCĐ) đang tạm xếp hạng 2/13 đoàn tham gia. Cử 01 huấn luyện viên và 02 vận động viên tham gia cùng đoàn Thể thao Việt Nam tham gia giải Judo quốc tế năm 2023 tại Thái Lan, đạt 01 HCV. Tham gia 04 giải toàn quốc đạt 11 huy chương các loại: vô địch các câu lạc bộ Karate quốc gia lần thứ XXIII năm 2023 tại Đắk Lắk (kết quả đạt 01 HCV, 01 HCB, 03 HCĐ); vô địch Bóng rổ trẻ 3x3 quốc gia U16 và U18 năm 2023 tại Bà Rịa – Vũng Tàu (kết quả đạt 02 HCB); vô địch Bắn cung quốc gia năm 2023 tại Vĩnh Long; vô địch Jujitsu quốc gia năm 2023 tại Bình Dương (đạt 04 HCĐ).
7.3. Lao động và an sinh xã hội
7.3.1. Về tình hình đời sống dân cư và giải quyết việc làm
Tình hình đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp đóng trên địa bàn: Để bù đắp phần trượt giá hàng năm và ổn định cuộc sống cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, đồng thời để điều chỉnh cân đối mức lương của cả hai khối sản xuất - kinh doanh và hành chính - sự nghiệp tương đồng với nhau, Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách nâng lương cơ bản cho tất cả các đối tượng là cán bộ công chức, viên chức từ ngày 01/7/2023, mức nâng từ 1.490.000 đồng lên 1.800.000 đồng (tăng tương đương 20,81%), mặc dù số tiền lương cơ bản tăng không nhiều nhưng phần nào đã cải thiện được cuộc sống, giảm bớt khó khăn cho gia đình và người lao động để ổn định cuộc sống. Trong năm 2023 giá cả chỉ ở mức tăng nhẹ, do vậy đời sống của những người lao động làm công ăn lương trong khu vực nhà nước vẫn giữ được ổn định so với năm trước. Cụ thể thu nhập từng khu vực như sau:
- Đối với lao động thuộc khối nhà nước: Ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 6,23 triệu đồng, thu nhập mỗi lao động trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý là 8,03 triệu đồng.
- Đối với người lao động thuộc khối doanh nghiệp: Ước thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,78 triệu đồng và trung ương quản lý là 6,86 triệu đồng.
- Đối với lao động ngoài nhà nước, hiện nay thu nhập vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2022. Ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 5,15 triệu đồng/người/tháng. Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 7,39 triệu đồng/người/tháng.
Tình hình đời sống nông dân tại địa phương: Nhìn chung đời sống người dân ở nông thôn ổn định, do đặc thù kinh tế Hậu Giang là tỉnh nông nghiệp, dân số phần đông sống ở vùng nông thôn và hoạt động nông nghiệp với nguồn thu nhập chính từ trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, khí hậu... nói chung là các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, trong đó bao gồm cả yếu tố giá cả thị trường như giá phân bón, thuốc trừ sâu, giá thức ăn cho chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, giá giống, giá bán của các mặt hàng nông sản, thủy sản... ở một khía cạnh nào đó có thể nói các yếu tố kể trên có tính chất quyết định đến chất lượng cuộc sống người dân nói chung và của dân cư nông thôn nói riêng. Vì vậy, chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm và có những chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhằm ổn định và nâng cao chất lượng đời sống người dân nông thôn.
Tình hình đời sống nông dân tại các xã, huyện được công nhận chuẩn Nông thôn mới: Tính đến nay, toàn tỉnh có tổng số 39/51 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 08/37 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, có 03/08 đơn vị cấp huyện/thị/thành phố được công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới là thành phố Vị Thanh, thành phố Ngã Bảy và huyện Châu Thành A. Đây có thể là những đơn vị chủ lực, mang lại tiềm năng kinh tế rất lớn cho tỉnh, hình thành những khu nông nghiệp cây ăn trái chuyên canh, mang lại năng xuất và giá trị kinh tế cao như: Khóm, bưởi, cam, măng cục, sầu riêng, … Ngoài ra, các đơn vị này luôn được địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng khá tốt như: Cầu, đường, trường trạm, … giúp cho người dân lưu thông mua bán trao đổi hàng hóa được thuận lợi. Vì vậy, cuộc sống của người nông dân tại các xã, huyện được công nhận chuẩn Nông thôn mới tương đối khá hơn so với các đơn vị còn lại. Hiện tại, các xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao đang tiến hành điều tra tiêu chí thu nhập theo Quyết định số 1245/QĐ-BKHĐT ngày 30/6/2022 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc công bố các chỉ tiêu về Hợp tác xã và Khu công nghiệp và ban hành quy trình thu thập, tổng hợp và tính toán tiêu chí về thu nhập thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-2025. Theo kết quả điều tra thu nhập năm 2022 của các xã đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, thu nhập bình quân của các xã đạt 56,96 triệu đồng/người/năm, tăng 3,24% so với thu nhập bình quân của các xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao năm 2021 (năm 2021: 55,17 triệu đồng/người/năm).
7.3.2. An sinh xã hội
Công tác giảm nghèo: Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2023, toàn tỉnh có tổng số hộ nghèo, cận nghèo là 17.162 hộ, tỷ lệ nghèo đa chiều là 8,53%. Trong đó, hộ nghèo là 9.736 hộ, chiếm tỷ lệ 4,84% và hộ cận nghèo là 7.426 hộ, chiếm tỷ lệ 3,69%. Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội Phối hợp với Cục Bảo trợ xã Hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức 02 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho 300 đại biểu làm công tác giảm nghèo các cấp. Nhân dịp Tết nguyên đán Quý Mão 2023 chính quyền địa phương đã thăm và tặng cho các hộ nghèo với tổng số tiền là 51.309,05 triệu đồng, tăng 9.672,24 triệu đồng so với Tết nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 (41.636,81 triệu đồng).
Công tác Bảo trợ xã hội: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 345.523 lượt đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 190.179,02 triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 1.855 trường hợp với số tiền 13.572 triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 65 trường hợp với số tiền là 1.158,6 triệu đồng; phối hợp với các đơn vị có liên quan tiếp nhận khoản viện trợ của Đoàn thiện nguyện Hoa Kỳ Mercer on Mission - Đại học MERCER đến Tỉnh viện trợ gắn 141 chân/tay giả và khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho 555 người bệnh xương khớp, mãn tính trên địa bàn tỉnh, kính phí khoảng 2.135 triệu đồng; tổ chức thăm, tặng quà cho 357 người khuyết tật nhân kỷ niệm Ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4/2023) với số tiền trên 122,8 triệu đồng; tổ chức thăm, tặng quà cho 300 nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam trên địa bàn tỉnh với kinh phí 300 triệu đồng nhân kỷ niệm Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8/2023).
Thực hiện chính sách với người có công: Công tác thực hiện chính sách Người có công luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo sâu sát, nhất là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định mới về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, công tác rà soát thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công. Kết quả thực hiện trong 9 tháng năm 2023 cụ thể như sau:
- Tiếp nhận mới 1.900 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 1.884 hồ sơ. Trong đó: đạt 1.770 hồ sơ, không đạt 114 hồ sơ. Còn 26 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết.
- Tổ chức đưa đón 473 người có công với cách mạng đi tham quan tại thủ đô Hà Nội và tỉnh Lâm Đồng; đi điều dưỡng tập trung tại Trung tâm điều dưỡng Người có công Miền Trung, Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Kiên Giang.
- Tổ chức các hoạt động kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2023). Kết quả, toàn tỉnh đã tổ chức thăm, tặng 24.634 phần quà cho người có công, thân nhân người có công với tổng kinh phí 13.687 triệu đồng.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 17 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 11 ca so với tháng trước, cộng dồn là 548 ca, giảm 05 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 166 ca mắc mới, giảm 09 ca so với tháng trước, cộng dồn là 602 ca, tăng 156 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút trong tháng không có ca mắc mới, cộng dồn là 05 ca, tăng 05 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 793 trẻ, cộng dồn là 8.003 trẻ, đạt 76%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 858 trẻ, cộng dồn là 8.229 trẻ, đạt 73,6%; tiêm VNNB (3) trong tháng là 592 trẻ, cộng dồn là 6.720 trẻ, đạt 60,1%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 858 thai phụ, cộng dồn là 7.578 thai phụ, đạt 71,8%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 09 ca, cộng dồn là 63 ca (tăng 50 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.004 ca (số đang quản lý là 1.055 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 61 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.029 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 650 lượt, cộng dồn là 6.342 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 9/2023: Tổng số lần khám trong tháng là 185.897 lượt, cộng dồn là 1.277.449 lượt, đạt 92,91% kế hoạch, tăng 32,04% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú trong tháng là 10.232 lượt, cộng dồn là 85.388 lượt, đạt 63,92% kế hoạch, tăng 34,39% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,04 ngày, giảm 0,52 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn, ngộ độc, chấn thương là 7.102 trường hợp, tăng 3.394 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 9/2023, toàn tỉnh đã xảy ra 20 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 19 vụ, đường thuỷ 01 vụ), làm 6 người chết (đường bộ 5 người, đường thuỷ 01 người), bị thương 22 người (tập trung ở đường bộ). So tháng trước số vụ tăng 5,26%, số người chết giảm 14,29%, số người bị thương tăng 15,79%. So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 400%, số người chết tăng 50%, số người bị thương tương đương.
Tính chung 9 tháng năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 128 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 127 vụ, đường thuỷ 01 vụ), làm chết 87 người (đường bộ 86 người, đường thuỷ 01 người), bị thương 71 người tập trung ở đường bộ. So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 40,70%, số người chết giảm 2,20%, số người bị thương tăng 446,20%.
7.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng, chống cháy, nổ
Tình hình vi phạm môi trường: Trong tháng không phát sinh số liệu. So với tháng trước, số vụ vi phạm phát hiện 01 vụ, số vụ xử lý 01 vụ và số tiền xử phạt 02 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ phát hiện 03 vụ, số vụ xử lý 04 vụ và số tiền xử phạt 16 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 26 vụ, xử lý 26 vụ với số tiền xử phạt là 619,75 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; vi phạm quy định về bảo vệ lâm sản, vi phạm môi trường về xây dựng, lắp đặt và đưa dự án may giày đi vào hoạt động khi chưa được cơ quan có thầm quyền cấp phép môi trường theo quy định và vi phạm quy định về vệ sinh thú y. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 21 vụ, xử lý giảm 19 vụ nhưng số tiền xử phạt tăng 28,75 triệu đồng (cộng dồn từ tháng 01 đến tháng 9 năm 2022, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 47 vụ, xử lý 45 vụ, xử phạt 591 triệu đồng).
Tình hình thiên tai: Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 7.346,78 triệu đồng, tăng 1.355,78 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2022. Cụ thể:
- Tình hình sạt lở: Trong tháng không xảy ra sạt lở, so với tháng trước, xảy ra 3 vụ sạt lở với tổng chiều dài sạt lở là 77m và diện tích mất đất 385m2, ước thiệt hại 152 triệu đồng, so với cùng kỳ năm 2022 không xảy ra sạt lở. Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 63 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 1.550,50m; diện tích mất đất 9.361,76m2; ước thiệt hại là 5.606 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ sạt lở tăng 46 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 3.544 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 6.527,76m2.
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng xảy ra 02 vụ dông lốc làm sập 01 căn nhà và tốc mái, hư hại 05 căn nhà, ước số tiền thiệt hại 60 triệu đồng. So với tháng trước, xảy ra 26 vụ dông lốc (giảm 24 vụ) làm sập 14 căn nhà (giảm 13 căn) và tốc mái, hư hại 36 căn nhà (giảm 31 căn), ước số tiền thiệt hại là 1.254,78 triệu đồng (giảm 1.194,78 triệu đồng). So với cùng kỳ năm 2022, số vụ bằng nhau, nhà sập tăng 01 căn, nhà tốc mái hư hại tăng 03 vụ, ước thiệt hại tăng 20 triệu đồng (tháng 9 năm 2022, xảy ra 2 vụ giông lốc, không có nhà sập, tốc mái, hư hại 02 căn nhà, ước thiệt hại 40 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay, xảy ra 47 vụ dông lốc làm sập 20 căn nhà và tốc mái, hư hại 66 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 1.740,78 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sửa chữa nhà và 5 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 27 vụ giông lốc, làm sập 15 căn nhà, tốc mái hư hại 63 căn nhà, ước thiệt hại 1.934 triệu đồng.
- Mưa lớn, lũ, ngập lụt: Từ đầu năm đến nay, do ảnh hưởng của bão số 1 và số 2, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang xảy ra mưa lớn kéo dài nhiều ngày liên tục, kèm theo gió mạnh đã gây ngập úng cục bộ và đổ ngã trên một số loại cây trồng, ước thiệt hại như sau: Cây lúa thiệt hại 5.207,44 ha, cây ăn trái thiệt hại 4,5 ha, cây hoa màu thiệt hại 13,52 ha, hiện Ban phòng chống thiên tai tỉnh chưa ước được số tiền thiệt hại. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 01 vụ mưa lớn, ngập lụt làm thiệt hại 1.464,00 ha lúa và 152,00 ha hoa màu, ước thiệt hại 1.955 triệu đồng.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 1.125 triệu đồng.
[1] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh để lập thành tích chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang (01/01/2004 - 01/01/2024). Vốn đầu tư năm 2023 được phân bổ tăng 14,33% (23.193,50/20.286,62 tỷ đồng) so với năm 2022. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian. Các chủ đầu tư chủ động trình cơ quan có thẩm quyền đề nghị chuyển nguồn vốn từ các dự án chưa có khối lượng giải ngân sang các dự án có nhu cầu bổ sung vốn trong năm 2023. Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[2] Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp.
[3] Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 10.576,25 ha, tăng 24,95% (bằng 2.111,93 ha), chủ yếu là tăng diện tích nuôi cá trên ruộng lúa vụ 3 (vụ lúa Thu đông). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 71,74 ha, tăng 1,66% (bằng 1,17 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 97,2 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 101,55 ha, tăng 34,59% (bằng 26,1 ha); Thể tích nuôi lươn được 11.341 m3, tăng 14,5% (bằng 1.436 m3) so cùng kỳ.
[4] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Đặc biệt là nhiều hộ mở rộng hoặc chuyển đổi diện tích từ diện tích đất vườn còn trống, diện tích nuôi chưa có hiệu quả sang nuôi các đối tượng thủy sản khác có giá trị kinh tế, phù hợp nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm an toàn; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân (như nuôi Ba ba).
[5] Nguyên nhân tăng cao so với cùng kỳ chủ yếu là sự đóng góp từ mức tăng 25,03% của hoạt động bán lẻ hàng hóa (chiếm tỷ trọng gần 73%), các loại hình dịch vụ lưu trú ăn uống và tiêu dùng khác tính chung chỉ đóng góp 27% với mức tăng lần lượt 26,61% và 19,79% so với cùng kỳ.
[6] Cụ thể một số nhóm hàng hoá như sau: Lương thực thực phẩm chiếm 43,66% tổng doanh thu và có đà tăng trưởng cao ở mức 39,18%; đồ dùng trang thiết bị gia đình chiếm 8,30% tổng doanh thu tăng nhẹ 0,44%; gỗ và vật liệu xây dựng chiếm 9,94% giảm 11,68% do giai đoạn cùng kỳ giá bán lẻ các sản phẩm thép tăng cao tạo ra giá trị doanh thu đột biến, thời điểm hiện tại giá cát tăng quá cao nhưng gặp thời tiết bất lợi cùng nhu cầu tiêu dùng giảm khiến doanh thu sụt giảm; xăng dầu chiếm 19,79% tăng 10,88%, nguyên nhân do nguồn cung xăng dầu đầy đủ thường xuyên hơn, chuỗi cung ứng không bị đứt quãng so với thời điểm cùng kỳ (năm 2022 do ảnh hưởng từ bên ngoài nên nguồn cung khan hiếm chuỗi cung ứng đứt gãy làm giá xăng tăng cao có thời điểm lên mức 33.000 đồng/lít) nên có sản lượng tiêu thụ tăng làm doanh thu tăng đáng kể.
[7] Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 183,56 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 45,77%; ngành ăn uống, ước tính được 4.713,58 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,07%./.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang