Thứ hai, 00/00/2023
°

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 năm 2023 tỉnh Hậu Giang

Ngày 30/11/2023 - 16:00:00 | 326 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Trong tháng 11/2023, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh vẫn phát triển ổn định, các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, gần đến cuối năm nên các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng tăng lượng hàng hoá sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong dịp lễ, tết sắp đến. Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế đều duy trì ở mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,47%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 21,60%, xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp tăng 45,32%, ... Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập trung chỉ đạo theo dõi tình hình xuống giống và chăm sóc cây lúa. Đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất rau màu, cây ăn quả, đặc biệt là các cây trồng có lợi thế cạnh tranh cao, sản xuất theo chuỗi giá trị, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Lúa Hè thu năm 2023: Đã xuống giống được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện đã thu hoạch dứt điểm. Năng suất chính thức đạt 60,36 tạ/ha, giảm 1,13% (bằng 0,69 tạ/ha) so với cùng kỳ. Sản lượng chính thức đạt 453.950 tấn, giảm 2,63% (bằng 12.282 tấn) so với cùng kỳ. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu tập trung các giống: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, còn lại các giống khác chiếm 3,5% …

Lúa Thu đông năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm 27.131 ha, đạt 110,74% kế hoạch tỉnh (24.500 ha), giảm 23,28% (bằng 8.230,8 ha) so với cùng kỳ. Đã thu hoạch được 25.422 ha, giảm 25,65% (bằng 8.770,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện lúa đang ở giai đoạn đẻ nhánh đến trổ chín, sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18 chiếm 50,9%, OM5451 chiếm 38,6%, các giống còn lại RVT, Đài thơm 8, … chiếm 10,5%.

Mía niên vụ 2022-2023: Đã xuống giống dứt điểm 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 28 ha nhiễm sinh vật gây hại (giảm 5 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng, phân bố ở huyện Phụng Hiệp và Thành phố Ngã Bảy. Hiện đã thu hoạch được 2.284 ha, giảm 26,63% (bằng 829 ha) so với cùng kỳ. Chủ yếu thu hoạch để bán mía chục. Giá bán mía nước trung bình từ 1.200-1.400 đồng/kg giảm 1.000-1.200 đồng/kg. Diện tích mía còn lại đang sinh trưởng và phát triển tốt.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 2.628,9 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 2,87% (bằng 73,31 ha); năng suất đạt 59,78 tạ/ha, giảm 9,25% (bằng 6,09 tạ/ha); sản lượng 11 tháng được 15.064,45 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 7,95% (bằng 1.300,7 tấn).

Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 25.110,37 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,77% (bằng 2.334,46 ha); ước sản lượng 11 tháng được 323.917,69 tấn, tăng 17,99% (bằng 49.392,61 tấn). Thực hiện theo Kế hoạch của ngành chức năng về việc mở rộng diện tích sản xuất rau màu, nuôi thủy sản trên ruộng lúa năm 2023, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch ước tăng mạnh so với cùng kỳ.

Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của tỉnh so với cùng kỳ:

- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.113,15 ha, giảm 0,04% (bằng 1,4 ha) so với cùng kỳ; sản lượng 11 tháng ước được 38.529,43 tấn, đạt 83,94% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 5,59% (bằng 2.040,53 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.

- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.700,14 ha, tăng 2,16% (bằng 36 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 11 tháng ước được 18.755,64 tấn, đạt 104,2% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,24% (bằng 934,39 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.

- Cây mít: Diện tích hiện có 9.747,94 ha, giảm 2,25% (bằng 224,35 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 11 tháng được 128.786,75 tấn, đạt 134,15% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 31,83% (bằng 31.094,57 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích thu hoạch và năng suất thu hoạch tăng cao.

 - Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 3.075,14 ha, tăng 9,04% (bằng 255,05 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 11 tháng được 29.054,79 tấn, đạt 62,08% so kế hoạch năm (46.800 tấn) và tăng 6,21% (bằng 1.698,11 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch và năng suất tăng.

- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 731,72 ha, tăng 1,61% (bằng 11,62 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 11 tháng được 8.246,53 tấn, đạt 88,86% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,25% (bằng 557,67 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.

1.1.2. Chăn nuôi

Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt… Đồng thời thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính tháng 11/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:

- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.236 con, giảm 10,76%[1] (bằng 149 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 4.241 con, tăng 14,04% (bằng 522 con) so với cùng kỳ.

- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.842 con, tăng 1,36% (bằng 1.961 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 102.988 con, tăng 1,52% (bằng 1.541 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.

- Đàn gia cầm: Ước được 4.393,24 ngàn con, tăng 2,18% (bằng 93,92 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 1.808,28 ngàn con, tăng 7,7% (bằng 129,25 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.

1.2. Lâm nghiệp

Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.

Ước thực hiện tháng 11/2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 197,78 ngàn cây, tăng 4,58% so với cùng kỳ; sản lượng gỗ khai thác khoảng 443 m3, tăng 3,99%; sản lượng củi khai thác khoảng 4.998 ste, tăng 4,87% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.827,27 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 1,93% (bằng 34,63 ngàn cây); sản lượng gỗ khai thác khoảng 15.477 m3, tăng 3,02% (bằng 454 m3); sản lượng củi khai thác khoảng 68.471 ste, tăng 0,91% (bằng 619 ste) so với cùng kỳ.

1.3. Thủy sản

Ước tính tháng 11/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 68,29 ha, tăng 17% (bằng 9,92 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 11.141,92 ha, đạt 100,38% so kế hoạch năm và kế hoạch mở rộng diện tích nuôi thủy sản trên ruộng lúa (11.100 ha) và tăng 24,69%[2] (bằng 2.206,22 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 10.934,45 ha, tăng 24,88% (bằng 2.178,46 ha). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 83,15 ha, tăng 2,02% (bằng 1,65 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 97,20 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 110,27 ha, tăng 32,52% (bằng 27,06 ha). Thể tích nuôi lươn được 18.970 m3, tăng 54,86% (bằng 6.720 m3) so cùng kỳ.

Ước tính tháng 11/2023, tổng sản lượng thủy sản được 7.838,47 tấn, tăng 10,10% (bằng 719.08 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng năm 2023, tổng sản lượng thủy sản được 73.523,1 tấn, đạt 85,49% so kế hoạch năm (86.000 tấn) và tăng 6,53%[3] (bằng 4.504,76 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:

- Sản lượng thủy sản khai thác 11 tháng ước được 2.361,48 tấn, giảm 1,26% (bằng 30,23 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.

- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 11 tháng ước được 71.161,62 tấn, đạt 85,43% so kế hoạch năm (83.300 tấn) và tăng 6,81% (bằng 4.534,99 tấn) so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng cá thát lát thu hoạch được 4.147,50 tấn, tăng 4,3% (bằng 170,81 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 1.515,95 tấn, tăng 60,83% (bằng 573,38 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.

2. Sản xuất công nghiệp

Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 11/2023: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.473,44 tỷ đồng, tăng 1,47% so với tháng trước và tăng 18,52% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá hiện hành, được 5.950,36 tỷ đồng, tăng 1,41% so với tháng trước và tăng 17,40% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng là do chính sách nhà nước khuyến khích “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và chương trình đưa hàng Việt về nông thôn đã phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở cá thể công nghiệp và doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tiêu thụ nội địa tăng sản lượng sản xuất để chuẩn bị phục vụ tiêu dùng trong dịp Noel và Tết Dương Lịch năm 2024 sắp tới. Ngoài ra, tăng một phần là do các chính sách ưu đãi thuế, chính sách giải quyết các thủ tục hành chính tinh gọn của các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền và quan trọng nhất là dự án các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh Hậu Giang đang trong giai đoạn đầu tư - xây dựng, nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn đến đầu tư hoặc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả mở rộng quy mô nhà máy. Cụ thể như Công ty TNHH Number One Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất đường RE, với sản lượng dự tính tháng 11 ước được 4.089 tấn, tạo ra giá trị sản xuất trên 65 tỷ đồng. Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:

- Tính theo giá so sánh 2010, được 35.110,60 tỷ đồng, tăng 12,11% so với cùng kỳ năm trước và đạt 90,07% so với kế hoạch năm.

- Tính theo giá hiện hành, được 60.347,82 tỷ đồng, tăng 20,99% so với cùng kỳ năm trước và đạt 93,24% so với kế hoạch năm.

Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có trên 361 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp. Trong đó, khoảng 20 doanh nghiệp có giá trị sản xuất theo giá hiện hành từ 500 tỷ đồng đến dưới 13.000 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng 5,74% về số lượng doanh nghiệp và tạo ra giá trị sản xuất theo giá hiện hành được 52.124 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 86,37% về giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh và các doanh nghiệp trên đang hoạt động hết sức ổn định, góp phần làm tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp so với cùng kỳ. Trong đó, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành công nghiệp như sau:

- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 267 doanh nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất trên 47.155,60 tỷ đồng (theo giá hiện hành), tăng 7,22% so với cùng kỳ năm trước. Đến thời điểm hiện tại tình hình suy thoái kinh tế thế giới cơ bản đã được kiểm soát, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu phục hồi trong cuối quý III đến nay, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đặc biệt, tỉnh đang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản có lợi thế cạnh tranh và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như: xay xát; chế biến thủy sản đông lạnh; sản xuất trái cây đóng hộp; chế biến trà mãng cầu; chế biến cá thát lát;… các sản phẩm này có khả năng xuất khẩu và giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm 2023 tăng trưởng so với cùng kỳ.

- Ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 85 doanh nghiệp và hợp tác xã đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất trên 12.816,83 tỷ đồng (theo giá hiện hành), tăng 119,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 83 doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất điện năng lượng mặt trời và sản xuất nước đá, giá trị sản xuất không nhiều, chiếm tỷ trọng 2,92% trong ngành sản xuất và phân phối điện và tăng 40,93% so với cùng kỳ. Riêng Điện lực Hậu Giang và Chi nhánh Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí sông Hậu 1, tạo ra giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng trên 97,07% trong ngành sản xuất và phân phối điện và tăng 133,85% so với cùng kỳ.

- Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có 9 doanh nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất 375,39 tỷ đồng, tăng 21,63% so với cùng kỳ. Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân được liên tục và ổn định. Vì vậy, giá trị sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.

Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Dự tính tháng 11/2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 2,66% so với tháng trước và tăng 13,47% so với cùng kỳ. Trong đó:

- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 2,76% so với tháng trước và tăng 13,97% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước như:

+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 2,01% so với tháng trước và tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 38,89% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 1,55% so với tháng trước và tăng 5,59% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô tăng 6,27% so với tháng trước và tăng 26,14% so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền tăng 12,29% so với tháng trước và tăng 64,57% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, tăng một phần là do Công ty TNHH NUMBER ONE Hậu Giang mới đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất đường RE, với sản lượng bình quân trên 4.302 tấn/tháng. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

+ Sản xuất đồ uống tăng 4% so với tháng trước và tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp lớn (giá trị sản xuất trên 2.000 tỷ đồng/năm) hoạt động trong ngành sản xuất đồ uống không cồn. Trong đó, sản lượng nước uống có hương vị hoa quả dự tính tháng 11 được 18,98 triệu lít, tăng 10,62% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm chỉ số ngành sản xuất đồ uống tăng so với cùng kỳ năm trước.

Dự tính 11 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 11,10% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 9,68% của 11 tháng năm 2020 so với cùng kỳ và cao hơn mức tăng 4,91% của 11 tháng năm 2021 so với cùng kỳ nhưng thấp hơn mức tăng 15,18% của 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ, do tháng 6/2022 nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu I hoạt động chính thức và Công ty TNHH MTV Masan HG hoạt động cả năm, nên chỉ số sản xuất 11 tháng năm 2022 tăng đột biến so với cùng kỳ). Cụ thể:

- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng trên 76,68% trong toàn ngành công nghiệp, tăng 7,41% thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành (thấp hơn mức tăng 11,89% của 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do trong những tháng đầu năm một số doanh nghiệp thiếu đơn hàng xuất khẩu, do kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát tăng cao. Tại các nước vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp trong tỉnh, có hiện tượng người dân cắt giảm chi tiêu, khiến hàng tồn kho của doanh nghiệp còn nhiều, dẫn đến giá cá, tôm giảm mạnh từ 20% đến 30% so với thời điểm cuối năm 2022, dù đã giảm giá, nhưng vẫn rất khó ký được các hợp đồng mới. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng thấp hơn chỉ số chung của toàn ngành và thấp hơn mức tăng 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ.

- Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 118,31% so với cùng kỳ (do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức hoạt động ổn định, nên đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng đột biến vào 6 tháng đầu năm 2023 và có xu hướng tăng trưởng chậm lại vào những tháng cuối năm, nhưng dự báo cả năm 2023 chỉ số sản xuất cộng dồn ngành này vẫn tăng cao (trên 115%) so với cùng kỳ năm trước).

- Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,96% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do các công ty cấp nước trên địa bàn tỉnh, đã hoàn thiện và khởi công mới các tuyến đường ống, dẫn nước đến các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh, để phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp được hoạt động liên tục.

3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Trong tháng, có 100 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (trong đó có 76 doanh nghiệp tư nhân và công ty, 24 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), với tổng số vốn đăng ký là 528.332 tỷ đồng; có 10 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 8 doanh nghiệp và công ty, tổng vốn là 157,40 tỷ đồng); có 19 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 03 công ty, tổng vốn là 13,05 tỷ đồng).

Lũy kế từ đầu năm đến nay, có 824 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (trong đó có 523 doanh nghiệp và công ty, còn lại 288 đơn vị trực thuộc), tổng vốn đăng ký là 3.902,71 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 2,2% về số lượng doanh nghiệp và giảm 23,72% về số vốn điều lệ); có 193 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 1.416,28 tỷ đồng; có 119 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 202 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 15,96% về số doanh nghiệp và tăng 30,74% về vốn điều lệ).

4. Vốn đầu tư

Đến nay, trong các Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp tập trung có 76 doanh nghiệp thực hiện 78 dự án đầu tư (trong đó có 14 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư trong nước là 78.583 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư nước ngoài là 3.851,6 triệu USD, trong đó có 54 dự án đầu tư đang hoạt động và 24 dự án đang giải phóng mặt bằng, xây dựng. Hỗ trợ nhà đầu tư khởi công xây dựng 07 dự án; hỗ trợ 03 dự án đi vào hoạt động; vốn triển khai dự án của nhà đầu tư là 3.100 tỷ đồng; phối hợp cấp 07 Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư.

Ước tính tháng 11/2023, vốn đầu tư thực hiện được 2.002,90 tỷ đồng, bằng 104,83% so với tháng trước và bằng 112,81% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:

- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 539,32 tỷ đồng, bằng 111,89% so với tháng trước và bằng 153,97% so với cùng kỳ năm trước.

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 161,06 tỷ đồng, bằng 100,51% so với tháng trước và bằng 30,30% so với cùng kỳ năm trước.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.302,52 tỷ đồng, bằng 102,70% so với tháng trước và bằng 145,76% so với cùng kỳ năm trước.

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 20.456,98 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,67%[4]. Chia ra:

- Vốn ngân sách nhà n­ước thực hiện được 4.848,10 tỷ đồng, bằng 165,34% so với cùng kỳ năm trước.

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà n­ước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện đ­ược 1.940,32 tỷ đồng, bằng 124,02% so với cùng kỳ năm trước.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 13.668,56 tỷ đồng, bằng 100,06% so với cùng kỳ năm trước.

Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp sau:

- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.

- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.

- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.

- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.

- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.

- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.

5. Tài chính, tín dụng

5.1. Tài chính

Ước tổng thu ngân sách nhà nước tháng 11/2023 được 1.059,12 tỷ đồng, luỹ kế được 13.193,62 tỷ đồng, đạt 123,29% dự toán Trung ương, đạt 91,11% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:

- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 705,50 tỷ đồng, luỹ kế được 5.304,64 tỷ đồng, đạt 86% dự toán Trung ương, đạt 81,38% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:

+ Thu nội địa: 650 tỷ đồng, luỹ kế được 4.783,06 tỷ đồng, đạt 86,96% dự toán Trung ương và đạt 81,76% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 521,58 tỷ đồng, đạt 78,08% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Trung ương trợ cấp 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 4.036,29 tỷ đồng, đạt 89,03% dự toán Trung ương, đạt 88,96% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

Ước tổng chi ngân sách địa phương tháng 11/2023 được 867,43 tỷ đồng, luỹ kế được 9.556,90 tỷ đồng, đạt 100,09% dự toán Trung ương giao, đạt 71,78% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Chi xây dựng cơ bản được 502,30 tỷ đồng, luỹ kế được 5.505,33 tỷ đồng, đạt 116,22% dự toán Trung ương giao, đạt 75,41% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Chi thường xuyên được 365,13 tỷ đồng, luỹ kế được 4.016,40 tỷ đồng, đạt 86,21% dự toán Trung ương giao, đạt 69,31% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

5.2. Tín dụng ngân hàng

Đến ngày 31/10/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 22.300 tỷ đồng, tăng trưởng 11,79% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 59,25% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 11.386 tỷ đồng (chiếm 51,06%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.914 tỷ đồng (chiếm 48,94%). Trong tổng vốn huy động trên địa bàn thì khối Ngân hàng Thương mại Nhà nước huy động được 14.729 tỷ đồng (chiếm 66,05%); khối Ngân hàng Thương mại Cổ phần được 6.524 tỷ đồng (chiếm 29,26%); Ngân hàng Chính sách xã hội được 1.005 tỷ đồng (chiếm 4,50%) và Quỹ tín dụng Nhân dân được 42 tỷ đồng (chiếm 0,19%). Ước thực hiện đến cuối năm 2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 22.399 tỷ đồng, tăng trưởng 12,08% so với cuối năm 2022.

Đến ngày 31/10/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 37.638 tỷ đồng, tăng trưởng 7,70% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.568 tỷ đồng (chiếm 51,99%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 18.070 tỷ đồng (chiếm 48,01%). Trong tổng dư nợ thì khối Ngân hàng Thương mại Nhà nước đạt 26.942 tỷ đồng (chiếm 71,58%); khối Ngân hàng Thương mại Cổ phần là 6.871 tỷ đồng (chiếm 18,26%); Ngân hàng Chính sách xã hội là 3.781 tỷ đồng (chiếm 10,05%), và Quỹ tín dụng Nhân dân là 44 tỷ đồng (chiếm 0,11%). Ước thực hiện đến cuối năm 2023 dư nợ đạt 38.791 tỷ đồng, tăng trưởng 11% so với cuối năm 2022.

Nợ quá hạn đến cuối tháng 10/2023 là 874 tỷ đồng, chiếm 2,32%/tổng dư nợ; nợ xấu là 439 tỷ đồng, chiếm 1,17%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 435 tỷ đồng, chiếm 49,77%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối năm 2023, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.

Tính đến cuối tháng 10/2023, dư nợ một số chương trình tín dụng trọng điểm theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương đạt được kết quả sau:

- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 2.689 tỷ đồng, tăng trưởng 18,51% so với cuối năm 2022.

- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 3.796 tỷ đồng, tăng trưởng 0,37% so với cuối năm 2022.

- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 8,81 tỷ đồng, giảm 33,31% so với cuối năm 2022.

- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 18,07 tỷ đồng, giảm 29,47% so với cuối năm 2022.

- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 210 tỷ đồng, tăng trưởng 31,25% so với cuối năm 2022.

- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 3.781 tỷ đồng, tăng trưởng 9,44% với cuối năm 2022.

- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 23.097 tỷ đồng, tăng trưởng 7,42% so với cuối năm 2022.

- Cho vay xây dựng nông thôn mới dư nợ 15.462 tỷ đồng, tăng trưởng 25,82% so với cuối năm 2022.

- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 285 tỷ đồng, tăng trưởng 2,89% so với cuối năm 2022.

- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 3.768 tỷ đồng, tăng trưởng 9,06% với cuối năm 2022.

- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp có doanh số cho vay đạt 14.553 tỷ đồng, dư nợ đạt 10.726 tỷ đồng, tăng trưởng 25,13% so với cuối năm 2022, với 709 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.

- Chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ trên địa bàn tỉnh có dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất 58,33 tỷ đồng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng là 1,39 tỷ đồng.

- Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN có tổng dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 943 tỷ đồng, tổng giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (bao gồm gốc và lãi) là 390,76 tỷ đồng, 29 khách hàng.

 - Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Ước tính tháng 11/2023, tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ thực hiện được 4.613,47 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,76% và so với cùng kỳ năm trước tăng 21,60%. Tình hình hoạt động kinh doanh của các cơ sở thương mại và dịch vụ trên địa bàn trong tháng hầu hết đều có mức tăng so với tháng trước nhưng không cao. Doanh thu bán lẻ có mức tăng 1,48%, trong khi hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống do trong trong tháng diễn ra ít sự kiện và lễ hội kém sôi động hơn tháng trước nên mức tăng cũng tương đối thấp ở mức 2,13%, còn lại các ngành dịch vụ khác tăng 2,89%. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.353,66 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,48% và so với cùng kỳ năm trước bằng 120,04%. Các nhóm hàng hóa bán lẻ vẫn diễn ra ổn định, quy mô giá trị doanh thu được tạo ra từ các cơ sở tiểu thương trên địa bàn ngày một gia tăng qua từng tháng, giúp duy trì tốc độ tăng ổn định so với cùng kỳ. Các nhóm hàng đóng góp vào mức tăng cao của tổng doanh thu bán lẻ so với cùng kỳ chủ yếu là các nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao và là những mặt hàng chủ lực được nhiều cơ sở ưu tiên kinh doanh như: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 16,83%; xăng dầu tăng 64,80%, tình hình chính trị trên thế giới chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, giá xăng dầu trong nước biến động theo giá dầu thế giới cũng khiến giá bán mặt hàng thiết yếu này có tốc độ tăng nhanh trong một số kỳ điều chỉnh thời gian qua; các mặt hàng tiêu dùng trang thiết bị gia đình tăng 22,05%; vàng bạc đá quý và kim loại quý tăng 22,54%, giá vàng trong nước biến động liên tục không ngừng và liên tiếp lập đỉnh giá mới chưa từng có so với cùng kỳ và những năm trước, giá bán vàng SJC miếng được các tổ chức giao dịch ở quanh mức 70 triệu đồng/lượng (cùng kỳ hơn 67 triệu đồng/lượng); Nhóm một số loại hàng hóa khác còn lại có mức tăng 8,78%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 605,30 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,13% và so với cùng kỳ năm trước tăng 38,57%. Trong đó: Ngành lưu trú ước được 22,89 tỷ đồng, so tháng trước tăng 1,20% và so với cùng kỳ tăng 21,22%; Ngành ăn uống ước được 582,41 tỷ đồng, so tháng trước tăng 2,16% và so cùng kỳ năm trước tăng 39,35%.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) thực hiện được 654,51 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,89% và so với cùng kỳ năm trước tăng 16,18%. Tổng doanh thu hoạt động dịch vụ tiêu dùng chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động xổ số kiến thiết. Trong tháng 11, giá trị quy mô doanh thu của ngành này được dự ước sẽ diễn ra ổn định và không có sự đột biến về doanh thu nhiều (số kỳ mở thưởng tháng 10 và tháng 11 tương đương). Do đó, tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành dịch vụ tiêu dùng khác có thể tăng nhẹ so với tháng trước và không có sự đột biến giống các tháng trước.

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 50.270,14 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,90%. Tốc độ tăng của các nhóm ngành bán lẻ tiếp tục là trụ đỡ giúp tổng doanh thu toàn ngành thương mại dịch vụ vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao từ đầu năm đến nay. Trong đó, các nhóm hàng có giá trị lớn hầu như đều có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 37.299,28 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,64%. Tổng doanh thu bán lẻ từ đầu năm đến nay có giá trị được tạo ra ổn định qua các tháng. Cơ cấu các nhóm hàng không biến động nhiều, mặt hàng thiết yếu chủ lực vẫn duy trì mức tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước và quy mô tăng dần qua từng tháng nếu tính từ những tháng đầu năm. Giá trị doanh thu nhóm lương thực, thực phẩm được tạo ra là nhóm hàng chiếm ưu thế nhất trong tổng doanh thu bán lẻ khi chiếm tỷ trọng tới 43,21% tổng doanh thu và so với cùng kỳ cũng có mức tăng khá cao, tăng 35,40%. Do đó, góp phần giúp tốc độ doanh thu bán lẻ duy trì được mức tăng cao với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 6.105,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 27,08%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 228,56 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 40,40%; Ngành ăn uống, ước tính được 5.877,25 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 26,61%.

- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 6.865,05 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,75%. Nhìn chung, hầu hết các ngành dịch vụ chi tiết trong tổng các ngành dịch vụ tiêu dùng khác tính từ đầu năm đến nay đều có sự gia tăng về quy mô doanh thu đáng kể. Trong đó, quy mô kinh doanh bất động sản của các doanh nghiệp dần về cuối năm có nhiều khởi sắc, nhu cầu tiêu dùng của người dân bất ngờ có tín hiệu tích cực trở lại, nguyên nhân một phần do các sản phẩm có giá bán hạ nhiệt vừa với túi tiền, mặt khác do chính sách thông thoáng cùng chương trình chào bán hỗ trợ phương thức thanh toán linh hoạt của các công ty cũng kích thích nhà đầu tư quay trở lại.

6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Ước thực hiện tháng 11/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 103.798 nghìn USD, so với tháng trước bằng 95,85% và so với cùng kỳ năm trước bằng 145,32%. Trong đó:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 75.016 nghìn USD, so với tháng trước bằng 100,32% và so với cùng kỳ năm trước bằng 153,57%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 28.782 nghìn USD, so với tháng trước bằng 85,89% và so với cùng kỳ năm trước bằng 127,47%.

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 1.135.707 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 101,51% và so với kế hoạch năm đạt 99,59%. Trong đó:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 743.023 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 99,50% và so với kế hoạch năm đạt 100,81%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 354.338 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,35% và so với kế hoạch năm đạt 98,36%.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 259 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 31,66% và so với kế hoạch năm đạt 28,43%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 38.087 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 100,24% và so với kế hoạch năm đạt 90,40%.

6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Tình hình hoạt động vận tải, kho bãi của các cơ sở trong tháng tiếp tục có đà tăng ổn định so với tháng trước nhưng có phần giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp vào mức tăng chung của toàn ngành chủ yếu do hoạt động vận chuyển hàng hóa ở cả đường bộ và đường thủy, có mức tăng lần lượt 2,83% và 3,62%, thường những tháng gần cuối năm nhu cầu vận chuyển của người dân cũng như của các doanh nghiệp thuê vận chuyển hàng đi các tỉnh sẽ tăng dần qua các tháng, do lượng hàng hóa cuối năm một nhiều hơn những tháng đầu năm. Ngoài ra, hoạt động vận chuyển hàng khách nhìn chung so với tháng trước cũng có sự gia tăng về giá trị nhưng có tốc độ tăng không đáng kể. Tất cả đã góp phần đáng kể tạo nên giá trị doanh thu và tốc độ tăng so với tháng trước.

Vì vậy, ước tính tháng 11/2023, doanh thu vận tải, kho bãi thực hiện được 146,91 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 99,50%. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 82,26 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,08% và so với cùng kỳ năm trước bằng 96,23%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,23 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,34% và so với cùng kỳ năm trước bằng 104,35%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 34,42 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,39% và so với cùng kỳ năm trước bằng 94,55%. Trong tháng chứng kiến quy mô doanh thu các loại hình dịch vụ gia tăng và có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với những tháng trước. Mức tăng này chủ yếu được đóng góp từ hoạt động logistic của các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ vận tải trên địa bàn khu công nghiệp huyện Châu Thành và Thành phố Ngã Bảy.

Ước tính 11 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 1.522,48 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 108,94%. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 822,03 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,15%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 332,19 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,97%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 368,26 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 99,09%.

6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa

Ước thực hiện tháng 11/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 491,56 nghìn tấn hàng hóa các loại (85.135,35 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,20% (104,09%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,87% (122,96%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 119,97 nghìn tấn (18.797,72 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,98% (102,95%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 114,41% (103,36%).

- Đường sông thực hiện được 371,60 nghìn tấn (66.337,63 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,60% (104,42%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,70% (129,94%).

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 5.308,64 nghìn tấn hàng hóa các loại (873.361,99 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 122,82% (127,73%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 1.273,13 nghìn tấn (202.457,95 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 140,16% (133,49%).

- Đường sông thực hiện được 4.035,51 nghìn tấn (670.904,03 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 118,21% (126,08%).

6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách

Ước thực hiện tháng 11/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.441,63 nghìn lượt hành khách (49.021,75 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 102,35% (101,08%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,15% (116,90%). Trong đó:

- Đường bộ vận chuyển được 203,15 nghìn lượt hành khách (42.169,81 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,22% (100,99%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,98% (120,15%).

- Đường sông vận chuyển được 2.238,48 nghìn lượt hành khách (6.851,94 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,45% (101,63%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,74% (100,25%).

Ước thực hiện 11 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 26.694,15 nghìn lượt hành khách (532.155,41 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 101,86% (109,70%). Chia ra:

- Đường bộ vận chuyển được 2.196,42 nghìn lượt hành khách (457.774,43 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 111,14% (111,45%).

- Đường sông vận chuyển được 24.497,73 nghìn lượt hành khách (74.380,99 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 101,10% (100,01%).

7. Một số tình hình xã hội

7.1. Giáo dục

Toàn ngành có 320 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 88 trường (có 05 trường tư thục); tiểu học có 147 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh. Có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.

Quy mô học sinh năm học 2023-2024: Ước thực hiện huy động học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông đến cuối năm 2023 là 156.190/158.100, đạt 98,17%, cụ thể như sau:

- Giáo dục Mầm non:

+ Nhà trẻ: 2.905/2.900, đạt tỉ lệ 100,17%.

+ Mẫu giáo: 24.715/24.700, đạt tỉ lệ 100,06%.

- Giáo dục phổ thông:

+ Tiểu học: 62.281/65.500 đạt tỉ lệ 95,09%.

+ THCS: 45.600/45.550, đạt tỉ lệ 101,29%.

+ THPT: 20.689/19.450, đạt tỉ lệ106,37%.

Trong tháng, công tác chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:

- Thành lập Tổ mạng lưới chuyên môn cấp học mầm non.

- Khảo sát công tác bồi dưỡng chuyên môn đối với cán bộ quản lý và giáo viên mầm non ở các cơ sở giáo dục mầm non.

- Phối hợp với Mobifone tỉnh Hậu Giang lên kế hoạch tổ chức Vòng chung kết Cuộc thi “English Beat”năm học 2023-2024 vào ngày 26/11/2023.

- Phát động cuộc thi "Đại sứ giảm nhựa" và chương trình truyền hình "Đường đến vinh quang".

- Tổ chức cuộc thi giáo viên tiểu học dạy giỏi cấp tỉnh năm học 2023-2024. Tổng số có 119 giáo viên dự thi, có 115 giáo viên được công nhận, trong đó có 04 giải nhất, 08 giải nhì, 24 giải ba.

7.2. Văn hóa, thể thao

Trong tháng, toàn Ngành thực hiện công tác tuyên truyền an toàn giao thông; tuyên truyền về cải cách hành chính,… Kết quả: in và lắp mới 1.900m2 pano, 1.300 cờ các loại, 120 băng rol. Tiếp tục thực hiện các mẫu maket về tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang (01/01/2004 – 01/01/2024). Đội Tuyên truyền lưu động tỉnh xây dựng nội dung, dàn dựng kịch bản tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hậu Giang biểu diễn tại Hội thi các hoạt động Tuyên truyền cổ động tỉnh Hậu Giang năm 2023 và tại các huyện, thị xã, thành phố.

Hoạt động thư viện: Phối hợp với Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh huyện Vị Thủy tổ chức phục vụ sách xe Thư viện lưu động đa phương tiện tại 03 điểm Trường Tiểu học và THCS thuộc huyện Vị Thủy, thu hút 1.830 lượt học sinh tham gia. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện. Trong tháng 11/2023 phục vụ 24.030 lượt người truy cập tra cứu (nâng tổng số lên 166.504 lượt) và đọc sách với 48.080 lượt sách (nâng tổng số lên 333.028 lượt).

Hoạt động Bảo tàng: Triển lãm ảnh 01 cuộc, phục vụ các sự kiện: Hội thảo khoa học cấp bộ với chủ đề “Liên kết vùng trong phát triển nhanh và bền vững đồng bằng sông Cửu Long” tại Trung Tâm Hội nghị tỉnh. Tiếp 08 đoàn khách tham quan tại các di tích Chiến thắng Chương Thiện tại TP.Vị Thanh; Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ,... Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube  Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 7.560 lượt người.

Lĩnh vực thể dục thể thao: Tổ chức Lễ bế mạc Đại hội Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX – Hậu Giang năm 2023. Đoàn Thể thao Hậu Giang tham gia 19/19 môn tại Đại hội gồm: Kickboxing, Boxing, Quần vợt, Cử tạ, Võ cổ truyền, Judo, Canoeing, Điền kinh, Kurash, Bóng đá nam, Bóng chuyền nam, Jujitsu, Việt dã, Bóng bàn, Bắn cung, Vovinam, Bi sắt và Karate, Kết quả: 61 Huy chương Vàng (HCV), 59 Huy chương Bạc (HCB), 106 Huy chương Đồng (HCĐ), xếp hạng 3/13 đoàn tham gia. Tham gia 05 giải toàn quốc, đạt 03 HCV, 02 HCB, 07 HCĐ: Giải vô địch Judo toàn quốc năm 2023 tại Bình Dương (đạt 01 HCV, 02 HCĐ); vô địch Vovinam toàn quốc lần thứ 29 năm 2023 tại Nam Định (đạt 01 HCV, 02 HCB, 01 HCĐ); giải Karate vô địch quốc gia năm 2023 tại Lạng Sơn; vô địch Điền kinh toàn quốc năm 2023 tại Hà Nội (đạt 01 HCĐ); vô địch vận động viên xuất sắc Jujitsu toàn quốc năm 2023 tại Đồng Nai (đạt 01 HCV, 03 HCĐ).

7.3. Lao động và an sinh xã hội

Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.366(16.586)/15.000 lao động, đạt 110,58% kế hoạch năm. Trong đó, đã hỗ trợ đưa 57(619)/547 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài theo hợp đồng, đạt 113,16% kế hoạch năm (trong đó có 214 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc). Tổ chức 18(82) phiên giao dịch việc làm với 2.859(8.942) người lao động tham dự, cấp phát chi phí ban đầu không hoàn lại cho lao động có con, em đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho 59(378) gia đình, với số tiền 375(3.000) triệu đồng.

Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 142(2.200) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 139(2.189) hồ sơ. Trong đó, đạt 139(2.063) hồ sơ, không đạt 0(126) hồ sơ. Còn 21 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Tổ chức đưa, đón 62(535) người có công với cách mạng đi tham quan, điều dưỡng tập trung tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Giới thiệu 03(19) trường hợp người hoạt động kháng chiến ra Hội đồng Giám định y khoa tỉnh khám giám định tỷ lệ bị nhiễm chất độc hóa học.

Lĩnh vực Bảo trợ xã hội - Giảm nghèo: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 39.628(424.693 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội, với số tiền 22.334,04(234.740,18) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 184(2.328) trường hợp, với số tiền 1.324,8(16.761,6) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 09(78) trường hợp với số tiền 220(1.445) triệu đồng. Tổ chức 09 lớp tập huấn nghiệp vụ quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025 với 1.290 đại biểu tham dự.

Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Trong tháng, toàn tỉnh đã tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 92(613) cuộc, với 2.909(24.826) lượt người tham dự; phát thanh được 41(403) cuộc, với 272 (2.545) phút tuyên truyền về tác hại của các loại tệ nạn xã hội. Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 896 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 155 người.

7.4. Y tế

Trong tháng, có 21 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 01 ca so với tháng trước, cộng dồn là 591 ca, giảm 394 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 485 ca mắc mới, tăng 217 ca so với tháng trước, cộng dồn là 1.346 ca, tăng 664 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút trong tháng không có ca mắc mới, cộng dồn là 05 ca, tăng 05 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, quai bị, bệnh dịch lạ chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.

Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 745 trẻ, cộng dồn là 9.564 trẻ, đạt 90,9%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 110 trẻ, cộng dồn là 8.804 trẻ, đạt 78,7%; tiêm VNNB(3) trong tháng là 790 trẻ, cộng dồn là 8.888 trẻ, đạt 84,3%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 7922 thai phụ, cộng dồn là 9.232 thai phụ, đạt 87,5%.

Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 14 ca, cộng dồn là 87 ca (tăng 31 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.028 ca (số đang quản lý 1.079 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 66 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.035 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 555 lượt, cộng dồn là 7.800 lượt.

Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 11/2023: Tổng số lần khám trong tháng là 146.645 lượt, cộng dồn là 1.573.681 lượt, đạt 114,45% kế hoạch, tăng 26,48% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú trong tháng là 11.992 lượt, cộng dồn là 106.884 lượt, đạt 78,98% kế hoạch, tăng 27,04% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,07 ngày, giảm 0,35 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn (các loại), ngộ độc, chấn thương là 8.640 trường hợp, tăng 3.617 trường hợp so với cùng kỳ.

7.5. Tai nạn giao thông

Trong tháng 11/2023, toàn tỉnh xảy ra 15 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 05 người, bị thương 13 người. So với tháng 10/2023, số vụ giảm 06 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương giảm 07 người. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 06 vụ, số người chết giảm 03 người, số người bị thương tăng 10 người. Nguyên nhân do đi không đúng phần đường là 04 vụ, không chú ý quan sát là 01 vụ, chuyển hướng không đúng quy định là 01 vụ, người đi bộ là 01 vụ, không giữ khoảng cách là 01 vụ, lỗi khác là 03 vụ, chưa rõ là 04 vụ.

Tính chung 11 tháng năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/11/2023), toàn tỉnh xảy ra 164 vụ tai nạn giao thông, làm chết 96 người, bị thương 107 người. So cùng kỳ 2022, số vụ tăng 56 vụ, số người chết giảm 06 người, số người bị thương tăng 85 người. Trong đó có 02 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm chết 01 người, bị thương 02 người; so với cùng kỳ năm 2022 số vụ tăng 01 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương tăng 02 người.

7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Trong tháng, không xảy ra thiên tai hay phát sinh số liệu vi phạm môi trường. Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, trong tháng 11/2023 đã xảy ra 01 vụ cháy tại kho lạnh Công ty Cổ phần Thuỷ sản Biển đông Hậu Giang, ước tổng thiệt hại về tài sản khoảng 15.315,48 triệu đồng, không có thiệt hại về người. Tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 03 vụ cháy, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 16.440,48 triệu đồng.

[1] Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp.

[2] Nguyên nhân tăng do địa phương vận động người dân chuyển đổi diện tích lúa vụ 3 (vụ lúa Thu đông) gieo trồng kém hiệu quả sang nuôi thủy sản, phát triển thêm khoảng 2.000 ha so với chỉ tiêu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao năm 2023, nâng tổng chỉ tiêu phát triển diện tích nuôi thủy sản năm 2023 lên 11.100 ha.

[3] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Đặc biệt là nhiều hộ mở rộng hoặc chuyển đổi diện tích từ diện tích đất vườn còn trống, diện tích nuôi chưa có hiệu quả sang nuôi các đối tượng thủy sản khác có giá trị kinh tế, phù hợp nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm an toàn; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân như nuôi Ba ba.

[4] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh để lập thành tích chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang (01/01/2004 - 01/01/2024). Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian. Các chủ đầu tư chủ động trình cơ quan có thẩm quyền đề nghị chuyển nguồn vốn từ các dự án chưa có khối lượng giải ngân sang các dự án có nhu cầu bổ sung vốn trong năm 2023. Được sự quan tâm của tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.


Bao cao KTXH thang 11-2023.doc Tải về
So lieu KTXH thang 11-2023.xlsx Tải về

Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác