Tháng 7/2023 là tháng trong tỉnh diễn ra nhiều sự kiện thể thao thu hút đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh tham gia như: Đại hội Thể thao đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX và giải Marathon Quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” Hậu Giang lần thứ IV năm 2023,… Vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế của Tỉnh tiếp tục phát triển, các chỉ tiêu kinh tế đều duy trì ở mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 15,30%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 20,34%; doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi tăng 16,43%, xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp tăng 57,05%,…. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập chung vào thu hoạch vụ lúa Hè thu năm 2023 và sản xuất vụ lúa Thu đông năm 2023. Đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất rau màu, cây ăn quả, đặc biệt các cây trồng có lợi thế cạnh tranh cao, sản xuất theo chuỗi giá trị, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện đã thu hoạch được 39.619,7 ha, tăng 53,15% (bằng 13.750,1 ha) so với cùng kỳ. Diện tích còn lại hiện đang giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ chín, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu là: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, các giống khác chiếm 3,5%.
Lúa Thu đông năm 2023: Đã xuống giống được 13.576 ha, lúa đang ở giai đoạn mạ đến đẻ nhánh sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18, OM5451, ...
Mía niên vụ 2022-2023: Đã xuống giống được 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 38 ha nhiễm sinh vật gây hại (tăng 03 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng. Hiện đã thu hoạch được 365 ha, tăng 58,7% (bằng 135 ha). Chủ yếu thu hoạch sớm để bán mía chục.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng 1.884 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 7,48% (bằng 131,1 ha); năng suất đạt 59,96 tạ/ha, giảm 2,65% (bằng 1,63 tạ/ha); sản lượng được 9.476,18 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 4,46% (bằng 404,57 tấn). Diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng do thay đổi mùa vụ dẫn đến sản lượng thu hoạch tăng so với cùng kỳ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 14.996,56 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,62% (bằng 1.315,82 ha); ước sản lượng được 142.119,74 tấn, tăng 9,08% (bằng 11.830,04 tấn). Thực hiện theo kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất rau màu, nuôi thuỷ sản ruộng lúa năm 2023 của Ngành chức năng người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.089,63 ha, tăng 1,48% (bằng 45,14 ha) so với cùng kỳ; sản lượng 7 tháng ước được 20.396,9 tấn, đạt 44,44% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 6,06% (bằng 1.165,43 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.651,67 ha, tăng 3,14% (bằng 50,35 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 7 tháng ước được 5.976,29 tấn, đạt 33,2% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,36% (bằng 304,1 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.689,36 ha, tăng 4,56% (bằng 422,57 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 7 tháng được 55.289,97 tấn, đạt 57,59% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 36,81% (bằng 14.876,28 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.812,57 ha, tăng 0,65% (bằng 18,04 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 7 tháng được 9.681,95 tấn, đạt 20,69% so kế hoạch năm (46.800 tấn) và tăng 5,91% (bằng 540,22 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất tăng.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 722,5 ha, tăng 4,06% (bằng 28,21 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 7 tháng được 2.567,84 tấn, đạt 27,67% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,53% (bằng 179,82 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, lực lượng thú y tăng cường kiểm soát dịch bệnh, thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt, …. Vì vậy, dịch bệnh được kiểm soát tốt. Ước tính tháng 7/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.263 con, giảm 11,55% [1] (bằng 165 con) so với cùng kỳ; Đàn bò ước được 3.967 con, tăng 7,83% (bằng 288 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 144.935 con, tăng 1,04% (bằng 1.498 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 102.608 con, tăng 1,38% (bằng 1.394 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm được 4.356,95 ngàn con, tăng 1,88% (bằng 80,42 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 1.683,15 ngàn con, tăng 5,76% (bằng 91,66 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
1.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.219,54 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 1,58% (bằng 18,91 ngàn cây); Sản lượng gỗ khai thác khoảng 6.592 m3, tăng 2,17% (bằng 140 m3); Sản lượng củi khai thác khoảng 56.814 ste, tăng 0,19% (bằng 107 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Trong tháng 7/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 2.709,8 ha, tăng 4,66% (bằng 120,71 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 7.912,11 ha, đạt 71,28% so kế hoạch năm và kế hoạch mở rộng diện tích nuôi thủy sản trên ruộng lúa, tăng 2,55% [2] (bằng 196,97 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 7.724,52 ha, tăng 2,33% (bằng 175,54 ha). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 63,79 ha, tăng 1,4% (bằng 0,88 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 97,2 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 90,39 ha, tăng 29,76% (bằng 20,73 ha); Thể tích nuôi lươn được 6.398 m3 tăng 1,68% (bằng 106 m3) so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 7/2023 ước được 3.752,19 tấn, tăng 13,85% (bằng 456,35 tấn) so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản 7 tháng ước được 35.204,54 tấn, tăng 4,55% [3] (bằng 1.533,04 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 7 tháng ước được 1.668,19 tấn, giảm 1,3% (bằng 21,91 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 7 tháng ước được 33.536,35 tấn, tăng 4,86% (bằng 1.554,95 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 1.287,82 tấn, tăng 3,06% (bằng 38,19 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 361,02 tấn, tăng 9,79% (bằng 32,19 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
2. Sản xuất công nghiệp
Ước thực hiện tháng 7/2023, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.654,34 tỷ đồng, tăng 5,79% so với tháng trước và tăng 22,13% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành, được 6.236,35 tỷ đồng, tăng 6,52% so với tháng trước và tăng 38,03% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 7 trên 531 triệu kwh, tăng 2,12% so với tháng trước và tăng 92,83% so với cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm trước các tổ máy mới vận hành chính thức, nên sản lượng đạt chỉ 275,37 triệu kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến giá trị sản xuất ngành này so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, tăng một phần là do thị trường tiêu thụ trong nước đã phục hồi, nên một số ngành sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, tăng sản lượng sản xuất so với cùng kỳ như: Sản xuất nước mắm được 11.042 ngàn lít, tăng rất cao so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi được 1.745 tấn, tăng 49,91% so với cùng kỳ; ...
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 22.046,11 tỷ đồng, tăng 11,61% so với cùng kỳ năm trước và đạt 56,56% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 37.733,91 tỷ đồng, tăng 24,11% so với cùng kỳ năm trước và đạt 58,30% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 8.231,75 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,82% trong toàn ngành và tăng 246,74% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 233 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 22.829,05 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,50% trong toàn ngành và tăng 8,29% so với cùng kỳ;
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 6.673,12 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,68% trong toàn ngành và giảm 3,95% so với cùng kỳ.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 7/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 1,77% so với tháng trước và tăng 15,30% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 1,77% so với tháng trước và tăng 12,24% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do thị trường tiêu thụ trong nước đã phục hồi, nên chỉ số sản xuất một số ngành tăng so với cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 34,95%; sản xuất trang phục tăng 26,16%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,33%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 94,75%... Ở chiều ngược lại, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhưng giảm so với cùng kỳ như: chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 3,94%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 5,25%.
- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Tăng 1,81% so với tháng trước và tăng 83,67% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty điện lực Hậu Giang đã cung cấp đủ điện, an toàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế tối đa không để tình trạng mất điện, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho người dân và các doanh nghiệp được hoạt động liên tục. Ngoài ra, tăng một phần là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất được trên 531 triệu kwh, tăng 2,12% so với tháng trước và tăng 92,83% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số ngành này so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tăng 0,65% so với tháng trước và tăng 13,60% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 05 doanh nghiệp đang hoạt động ổn định trong ngành này. Trong đó, Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang đi vào hoạt động ổn định từ cuối năm 2022 đến nay, với sản lượng trên 1,26 triệu M3/tháng. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Dự tính 7 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 12,40% so với cùng kỳ. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò làm động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp với mức tăng 7,34%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 211,26%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,93%. Một số ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh, duy trì sản xuất ổn định và có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất trang phục tăng 12,45%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 65,84%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 211,26%… Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 8,18%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 5,29%;... Nguyên nhân là do chi phí nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng cao như: Xăng dầu, phí vận chuyển, nguyên liệu nhập khẩu… nên một số doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng đã ký, không để hàng tồn kho nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng tăng chưa đúng như tiềm năng và thế mạnh của tỉnh.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 7 tháng năm 2023 so với cùng kỳ như sau:
- Sản lượng nước mắm sản xuất được 57,60 triệu lít, tăng 1.436,82% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 8,33% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, chiếm tỷ trọng 2,52% trong toàn ngành và sản lượng mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 9.289 tấn, tăng 17,48% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 3,44% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, chiếm tỷ trọng 1,04% trong toàn ngành, đây cũng là 2 sản phẩm chủ lực của Công ty TNHH MTV Masan HG. Ngoài ra, đến thời điểm hiện tại doanh nghiệp mới đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất sữa, với sản lượng dự tính được 1,12 triệu lít/tháng, các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, thuộc nhóm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và được phân phối trực tiếp đến các hệ thống siêu thị trong vùng, nên thị trường của doanh nghiệp rất ổn định và có khả năng tăng trưởng cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản được 210.585 tấn, tăng 13,20% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 22,81% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 6,90% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng điện sản xuất được 3.470 triệu kwh, tăng 257,91% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 96% trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 21,51% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do sau thời gian vận hành chính thức nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, đã hoạt động ổn định và sản lượng điện sản xuất 7 tháng đầu năm tăng đột biến so với cùng kỳ (cùng thời điểm năm 2022 doanh nghiệp đang trong giai đoạn chạy thử nên sản lượng điện sản xuất được 969,60 triệu kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến ngành này so với cùng kỳ năm trước.
Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của giá nguyện, vật liệu đầu vào tăng, cũng như thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, nên một số sản phẩm công nghiệp sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường xuất khẩu giảm sản lượng sản xuất như:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 15.038 tấn, chiếm tỷ trọng 37,13% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 11,24% trong toàn ngành, giảm 33,93% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do hiện nay doanh nghiệp đang thiếu đơn hàng xuất khẩu, do kinh tế thế giới không thuận lợi, lạm phát tăng cao. Tại các nước vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp, có hiện tượng người dân cắt giảm chi tiêu khiến hàng tồn kho của doanh nghiệp còn nhiều dẫn đến giá cá, tôm giảm mạnh từ 20% đến 30% so với cuối năm 2022, dù đã giảm giá, nhưng vẫn rất khó ký được các hợp đồng mới. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 7 tháng, ngành chế biến, bảo quản thủy sản giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chai được 33,89 triệu lít, chiếm tỷ trọng 11,19% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 0,99% trong toàn ngành, giảm 39,41% so với cùng kỳ. Hiện tại ý thức của người dân, không sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông đã đi vào cuộc sống, nên tình hình tiêu thụ rượu, bia giảm nhiều so với trước, Vì vậy, nhà máy cắt giảm sản lượng sản xuất so với cùng kỳ, để hạn chế hàng tồn kho nhiều, ảnh hưởng đến vốn sản xuất của doanh nghiệp.
- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 9.114 ngàn đôi, chiếm tỷ trọng 75,80% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 6,76% trong toàn ngành, giảm 10,20% so với cùng kỳ. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu năm doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình tiêu thụ, nên doanh nghiệp giảm sản lượng so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 7 tháng năm 2023 giảm so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 254.982 tấn, chiếm tỷ trọng 87,92% trong ngành sản xuất giấy và chiếm tỷ trọng 8,05% trong toàn ngành, giảm 5,72% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do chi phí nhập khẩu nguyên, vật liệu tăng cao, cũng như giá thành sản phẩm cũng tăng, nên đơn hàng của doanh nghiệp giảm nhẹ so với cùng kỳ.
Nhìn chung, trong 7 tháng năm 2023 tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng, có 98 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với số vốn đăng ký là 372,3 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 96% về số doanh nghiệp và tăng 65,47% về số vốn doanh nghiệp, so với cùng kỳ tăng 38,03% về số doanh nghiệp và giảm 27,99% về số vốn doanh nghiệp; có 11 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng số vốn là 129 tỷ đồng; có 24 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng số vốn là 405,2 tỷ đồng.
Lũy kế từ đầu năm đến nay, có 478 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng vốn đăng ký là 1.726,61 tỷ đồng, so cùng kỳ giảm 14,64% về số doanh nghiệp và giảm 51,31% về số vốn doanh nghiệp; có 47 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 179,1 tỷ đồng, so với cùng kỳ giảm 52,04% về số doanh nghiệp và tăng 64,31% về số vốn doanh nghiệp; có 145 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng, tổng vốn là 986,4 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 23,93% về số doanh nghiệp và giảm 5,52% về số vốn doanh nghiệp.
4. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 14/7/2023, kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2023 là 23.193,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.733 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 15.310 tỷ đồng.
Ước tính tháng 7/2023, vốn đầu tư thực hiện được 2.292,18 tỷ đồng, tăng 3,22% so với tháng trước [4] và tăng 29,10% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 533,70 tỷ đồng, bằng 108,34% so với tháng trước và bằng 180,61% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 168,30 tỷ đồng, bằng 96,06% so với tháng trước và bằng 222,62% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.590,18 tỷ đồng, bằng 102,40% so với tháng trước và bằng 113,22% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 13.542,19 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 15,78% [5] và đạt 58,39% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.738,21 tỷ đồng, bằng 177,55% so với cùng kỳ năm trước và đạt 47,76% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.291,59 tỷ đồng, bằng 231,90% so với cùng kỳ năm trước và đạt 60,06% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 9.512,39 tỷ đồng, bằng 99,12% so với cùng kỳ năm trước và đạt 62,13% so với kế hoạch năm.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 7/2023 được 899,12 tỷ đồng, luỹ kế được 9.721,07 tỷ đồng, đạt 90,84% dự toán Trung ương, đạt 87,72% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 545,50 tỷ đồng, luỹ kế được 3.427,52 tỷ đồng, đạt 55,57% dự toán Trung ương, đạt 52,59% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 490 tỷ đồng, luỹ kế được 3.077,62 tỷ đồng, đạt 55,96% dự toán Trung ương và đạt 52,61% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 349,90 tỷ đồng, đạt 52,38% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp được 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 2.609,04 tỷ đồng, đạt 57,55% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 7/2023 được 810,29 tỷ đồng, luỹ kế được 6.727,84 tỷ đồng, đạt 70,46% dự toán Trung ương giao, đạt 67,85% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản: 419,54 tỷ đồng, luỹ kế được 4.271,93 tỷ đồng, đạt 89,86% dự toán Trung ương giao, đạt 84,85% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 390,74 tỷ đồng, luỹ kế được 2.440,79 tỷ đồng, đạt 52,39% dự toán Trung ương giao, đạt 52,05% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 30/6/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 21.864 tỷ đồng, tăng trưởng 9,6% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 58,84% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 11.083 tỷ đồng (chiếm 50,69%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.781 tỷ đồng (chiếm 49,31%). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 3,4-4,75%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 5,0-7,5%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 6,2-7,7%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 7/2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 21.915 tỷ đồng, tăng trưởng 9,86% so với cuối năm 2022.
Đến ngày 30/6/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 37.160 tỷ đồng, tăng trưởng 6,33% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.543 tỷ đồng (chiếm 52,59%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 17.617 tỷ đồng (chiếm 47,41%). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 8,5 - 12,5%/năm; trung, dài hạn từ 11 - 16%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 7/2023, dư nợ đạt 37.349 tỷ đồng, tăng trưởng 6,87% so với cuối năm 2022.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 6/2023 là 894 tỷ đồng, chiếm 2,4%/tổng dư nợ; nợ xấu là 410 tỷ đồng, chiếm 1,1%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 484 tỷ đồng, chiếm 54,14%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 7/2023, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động kinh doanh của các cơ sở thương mại và dịch vụ trên địa bàn trong tháng 7 có sự tăng trưởng không đồng đều, doanh thu tạo ra giữa các ngành không đồng nhất có xu hướng tăng giảm khác nhau. Các ngành dịch vụ tính chung (bao gồm lưu trú, ăn uống) có mức tăng 5,42% trong khi doanh thu bán lẻ hàng hóa có giá trị giảm 4,54% so với tháng trước (do một số cơ sở có doanh thu giảm và một số chuyển trụ sở kinh doanh khỏi địa bàn tỉnh). Ước tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ tháng 7/2023 thực hiện được 4.591,25 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 0,73% và so với cùng kỳ năm trước tăng 20,34%.
- Doanh thu bán lẻ hàng hoá thực hiện được 3.327,60 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 95,46% và so với cùng kỳ bằng 121,57%. Lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trong tháng có sự biến động nhiều ở các cơ sở sản xuất kinh doanh. Một số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể và một số khác đã chuyển trụ sở kinh doanh khỏi địa bàn tỉnh (có doanh nghiệp có doanh thu tương đối lớn, bình quân 10 tỷ/tháng). Mặt khác, trong tháng cũng chịu sự sụt giảm giá trị doanh thu của một số nhóm hàng lớn trong tổng doanh thu bán lẻ, chủ yếu là lương thực, thực phẩm giảm 1,82%; gỗ và vật liệu xây dựng giảm 3,01% vì thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, các sản phẩm thép trong nước chịu sự cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm thép nhập khẩu.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 599,28 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 8,82% và so với cùng kỳ năm trước tăng 36,21%[6]. Trong tháng trên địa bàn diễn ra nhiều sự kiện văn hóa thể thao được tổ chức với quy mô lớn: Giải Marathon quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” Hậu Giang lần thứ IV năm 2023 thu hút gần 9.000 vận động viên tham dự, sự kiện Đại hội Thể thao khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long lần thứ IX với 13 tỉnh thành tham dự, số lượng vận động viên khoảng 2.400 người. Vì vậy, các hoạt động kinh doanh nhà hàng, khách sạn, quán ăn được dự tính sẽ tăng tương đối cao.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) thực hiện được 664,37 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 12,93% (do doanh thu hoạt động xổ số chiếm tỷ trọng 39,86% trong tổng các ngành dịch vụ được dự ước sẽ tăng trong tháng tới do có số kỳ mở thưởng nhiều hơn 1 kỳ so với tháng trước, doanh thu bình quân 1 kỳ mở thưởng đạt 80 tỷ/kỳ) và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,08%.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 31.714,88 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 116,16%. Nhìn chung, qua 7 tháng doanh thu cộng dồn bán lẻ hàng hóa và các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và tiêu dùng hầu hết đều có mức tăng cao so với cùng kỳ, bình quân trên 15% nên đã góp phần làm tổng doanh thu chung tăng ở mức cao. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 23.753,13 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,78%. Qua 7 tháng, nhìn chung hầu hết các nhóm hàng chủ lực đều có mức tăng tương đối cao so với cùng kỳ chỉ có một số ít nhóm hàng vẫn còn giá trị giảm do trong những tháng đầu năm thị trường có nhiều biến động không thuận lợi nên hoạt động kinh doanh các lĩnh vực nhóm ngành này bị ảnh hưởng dẫn đến sụt giảm giá trị như: Đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình giảm 5,76%, gỗ và vật liệu xây dựng giảm 9,66%.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 3.738,58 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 23,90%. Chia ra:
+ Ngành lưu trú ước tính được 135,71 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 47,90%.
+ Ngành ăn uống ước tính được 3.602,87 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 23,14%. Hưởng lợi từ nhiều hoạt động sự kiện lớn tập trung số lượng người đông được tổ chức sôi động vào các tháng 5, 6, 7 đã giúp doanh thu của các quán ăn, nhà hàng trên địa bàn tăng cao, do đó ngành ăn uống giữ được đà tăng trưởng cao trong 7 tháng năm 2023 so với cùng kỳ.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 4.223,17 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,03%. Đến hiện tại các ngành dịch vụ vẫn giữ được mức tăng với tốc độ ổn định so với cùng kỳ. Riêng dịch vụ kinh doanh bất động sản tính từ đầu năm có doanh thu tăng đột biến trong tháng 6 do doanh nghiệp thành công ký được các hợp đồng bán đất nền đã góp phần đưa tốc độ tăng chung của toàn ngành dịch vụ tăng cao trong 7 tháng so với cùng kỳ (bất động sản chiếm tỷ trọng 21,95%).
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 7/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 132,47 triệu USD so với tháng trước bằng 99,85% và so với cùng kỳ năm trước bằng 157,05%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 92,08 triệu USD, so với tháng trước bằng 103,29% và so với cùng kỳ năm trước bằng 164,37%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 40,39 triệu USD, so với tháng trước bằng 92,80% và so với cùng kỳ năm trước bằng 142,59%.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 733,77 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 117,88%, so với kế hoạch năm đạt 64,35%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 465,76 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 122,15%, so với kế hoạch năm đạt 63,19%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do ước giá trị xuất khẩu của nhóm hàng giày dép tăng 7,55% (chiếm 30,83% tổng giá trị xuất khẩu), hàng thủy sản tăng 15,49% (chiếm 26,08% tổng giá trị xuất khẩu); hàng hóa khác tăng 58,47% (chiếm 24,21% tổng giá trị xuất khẩu).
- Nhập khẩu ước thực hiện được 245,03 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,54%, so với kế hoạch năm đạt 68,02%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do ước giá trị nhập khẩu của các nhóm hàng giấy các loại tăng 1,44% (chiếm 31,24% tổng giá trị nhập khẩu), hóa chất tăng 46,10% (chiếm 17,50% tổng giá trị nhập khẩu), thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 106,39% (chiếm 5,68% tổng giá trị nhập khẩu).
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,21 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 33,33%, so với kế hoạch năm đạt 23,05%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 22,77 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 91,99%, so với kế hoạch năm đạt 54,04%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Ước tính tháng 7/2023, tổng doanh thu vận tải kho bãi thực hiện được 141,26 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,22% và so với cùng kỳ năm trước tăng 16,43%. Doanh thu các hoạt động dịch vụ logictis, kho bãi tăng cao (tăng 32,38% so với cùng kỳ) cùng các loại hình hoạt động vận chuyển hàng hóa đường bộ và đường thủy vẫn tiếp tục có doanh thu ổn định và có tốc độ tăng khá cao so với cùng kỳ, bình quân tăng hơn 10%. Vì vậy, tổng doanh thu chung ngành vận tải kho bãi trên địa bàn vẫn giữ được mức tăng cao so với cùng kỳ. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 70,46 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 99,58% và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,25%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 31,78 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,05% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,29%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 39,02 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,23% và so với cùng kỳ năm trước bằng 132,38%. Nguyên nhân do trong tháng doanh thu của các doanh nghiệp logistic có giá trị doanh thu tăng hơn 35% so với cùng kỳ.
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 944,69 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 119,18%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 493,28 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 132,34%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 216,09 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 117,69%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 235,32 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 99,59%. Hoạt động kinh doanh các loại hình dịch vụ hỗ trợ vận tải và chuỗi logictis của các cơ sở qua 7 tháng đang dần ổn định và có tốc độ tăng trưởng tốt qua từng tháng. Giá trị doanh thu đóng góp vào tổng giá trị chung của ngành này ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 7/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 485,01 nghìn tấn hàng hóa các loại (82.160,19 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,25% (102,25%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 134,36% (143,41%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 113,16 nghìn tấn (18.522,98 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 99,05% (99,25%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,31% (129,17%).
- Đường sông thực hiện được 371,85 nghìn tấn (63.637,21 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,26% (103,15%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 147,88% (148,16%).
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 3.422,71 nghìn tấn hàng hóa các loại (551.658,22 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 136,72% (174,94%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 813,91 nghìn tấn (131.372,75 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 95,37% (166,57%).
- Đường sông thực hiện được 2.608,80 nghìn tấn (420.285,47 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 158,10% (177,73%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 7/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.377,30 nghìn lượt hành khách (50.733 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 100,54% (101,56%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 117,66% (103,82%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 210,10 nghìn lượt hành khách (44.027,19 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,97% (101,64%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,56% (105,90%).
- Đường sông vận chuyển được 2.167,20 nghìn lượt hành khách (6.705,81 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 100,40% (101,01%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 120,36% (91,95%).
Ước thực hiện 7 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 17.187,20 nghìn lượt hành khách (338.768,45 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 123,76% (96,10%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 1.389,62 nghìn lượt hành khách (291.099,75 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 94,51% (94,91%).
- Đường sông vận chuyển được 15.797,58 nghìn lượt hành khách (47.668,69 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 127,23% (104,09%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Toàn ngành có 317 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường; tiểu học có 149 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh; có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Trong tháng, ngành Giáo dục và Đào tạo tập trung vào các hoạt động chuyên môn sau:
- Tập huấn trực tiếp mô đun 7 và mô đun 8 thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, tập huấn sử dụng sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng và an ninh lớp 11 theo chương trình GDPT 2018; tập huấn nâng cao năng lực cho giáo viên Âm nhạc sử dụng sáo Recorder và kèn phím trong dạy học âm nhạc, nghiệp vụ thư viện thân thiện, triển khai hoạt động giáo dục STEM trong giáo dục tiểu học.
- Tổ chức Hội thảo "Nâng cao năng lực giáo viên phổ thông trong giáo dục STEM/STEAM hướng đến phát triển phẩm chất và năng lực người học".
- Phê duyệt điểm chuẩn trúng tuyển vào lớp 10 THPT chuyên Kỳ tuyển sinh vào lớp 10 THPT, THPT chuyên, PTDTNT Năm học 2023–2024.
- Tham mưu ban hành Quyết định Phê duyệt danh mục sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 10 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, từ năm học 2023-2024.
- Xây dựng kế hoạch tổ chức ôn tập, thi và cấp giấy chứng nhận Kỳ thi nghề phổ thông khoá tháng 10 năm 2023.
- Đánh giá kết quả nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng năm học 2022-2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023-2024.
7.2. Văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ; Đại hội Thể thao đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX và giải Marathon Quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” Hậu Giang lần thứ IV năm 2023,… kết quả: in và lắp mới 2.396m2 pano, 1.150 cờ các loại, 95 băng rol. Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với 58 buổi, phục vụ 35.660 lượt người xem, tổ chức 55 lượt phóng thanh cổ động.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm 1.500 quyển sách nhân Ngày Quốc tế gia đình; Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình và Ngày Gia đình Việt Nam năm 2023 vào ngày 27/6/2023 tại Trung tâm Văn hóa tỉnh, với các chuyên đề: Gia đình; Ẩm thực - Chăm sóc sức khỏe; Sách mới các lĩnh vực, thu hút trên 1.500 lượt người xem. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện, đảm bảo nguyên tắc 2K+ để phòng, chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện, trong tháng 7/2023 phục vụ 14.846 lượt người truy cập tra cứu (nâng tổng số lên 93.796 lượt) và đọc sách với 29.692 lượt sách (nâng tổng số lên 187.592 lượt).
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức sưu tầm và viết lý lịch 30 hiện vật. Tiếp tục thực hiện đăng Video 09 Di tích: Chiến thắng Chương Thiện thành phố Vị Thanh, Chiến thắng Chương Thiện - Long Mỹ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Đền thờ Bác Hồ, Chiến thắng Cái Sình, Chiến thắng Tầm Vu, Ủy ban Liên hiệp Đình chiến nam Bộ để truyền tải nội dung, hình ảnh các di tích trên kênh Youtube nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 17.563 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Phối hợp các đơn vị liên quan chuẩn bị tổ chức Lễ khai mạc Đại hội Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX và giải Marathon quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” Hậu Giang lần thứ IV năm 2023. Tham gia giải Vô địch Karate trẻ miền Nam lần thứ II năm 2023 tại thành phố Cần Thơ, kết quả đạt 04 Huy chương Vàng, 05 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng. Tham gia giải Vô địch Jujitsu trẻ toàn quốc năm 2023 tại Thanh Hóa, kết quả đạt 03 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.371(11.299)/15.000 lao động, đạt 75,33% kế hoạch năm. Trong đó, đã hỗ trợ đưa 166(450)/547 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài theo hợp đồng, đạt 82,3% kế hoạch năm (trong đó có 214 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc). Tổ chức cấp phát chi phí ban đầu không hoàn lại cho người lao động có con, em đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cho 33(190) người, với số tiền 262,5(1.605,5) triệu đồng.
Công tác hỗ trợ tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp: Từ đầu năm đến nay, thực hiện thỏa thuận và giao kết hợp đồng hỗ trợ tuyển dụng lao động đối với 19 lượt doanh nghiệp. Tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn đã hỗ trợ giới thiệu, cung ứng được 2.536 lao động.
Công tác giáo dục nghề nghiệp: Từ đầu năm đến nay, tuyển sinh học nghề được 1.670(6.254)/6.500 người, đạt 96,21% kế hoạch năm. Trong đó: trình độ cao đẳng 0(40) người; trung cấp 0(119), sơ cấp và dưới 03 tháng là 1.670(6.095) người.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 233(1.498) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 288(1.487) hồ sơ. Trong đó, đạt 273(1.400) hồ sơ, không đạt 15(87) hồ sơ. Còn 21 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết.
Công tác bảo trợ xã hội: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 38.823 (267.114 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 21.786,3 (146.217,08) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 225(1.475) trường hợp, với số tiền 1.620(10.620) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 08(33) trường hợp, với số tiền 169(614) triệu đồng.
Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 103(331) cuộc với 4.188(12.758) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 87(248) cuộc, với 395(1.593) phút tuyên truyền. Ban Chỉ đạo 138 các cấp đã tổ chức kiểm tra được 21(131) cuộc, với 50(341) lượt cơ sở, qua kiểm tra cho cam kết, nhắc nhở 12(48) cơ sở; phạt hành chính 02(11) cơ sở, với số tiền 16,5(70,75) triệu đồng. Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.093 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 121 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 17 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 03 ca so với tháng trước, cộng dồn là 503 ca, tăng 362 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 116 ca mắc mới, tăng 99 ca so với tháng trước, cộng dồn là 261 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút trong tháng không có ca mắc mới, cộng dồn là 05 ca, tăng 05 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 732 trẻ, cộng dồn là 6.362 trẻ, đạt 60,4%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 850 trẻ, cộng dồn là 6.516 trẻ, đạt 58,2%; tiêm VNNB(3) là 1.892 trẻ, cộng dồn 5.228 trẻ, đạt 46,7%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 842 trẻ, cộng dồn là 5.874 trẻ, đạt 55,7%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 06 ca, cộng dồn là 43 ca (tăng 26 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.984 ca (số đang quản lý 1.035 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 63 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 937 người. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 834 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 7/2023: Tổng số lần khám là 134.934 lượt, cộng dồn là 916.972 lượt, đạt 66,69% kế hoạch, tăng 36,87% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 8.948 lượt, cộng dồn là 65.722 lượt, đạt 49,20% kế hoạch, tăng 43,61% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6 ngày, giảm 0,79 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn, ngộ độc, chấn thương là 5.672 trường hợp, tăng 2.981 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 7/2023, toàn tỉnh xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 15 người, bị thương 18 người. So với tháng 6/2023, số vụ tăng 22 vụ, số người chết tăng 10 người, số người bị thương tăng 17 người. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 21 vụ, số người chết tăng 10 người, số người bị thương tăng 14 người. Nguyên Nhân do không chú ý quan sát là 06 vụ; không đúng phần đường là 06 vụ; vượt sai quy định là 02 vụ; liên quan đến rượu, bia là 01 vụ; chuyển hướng không dúng quy định là 01 vụ; không nhường đường là 01 vụ; khác là 04 vụ; đang điều tra làm rõ 06 vụ.
Trong 7 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/7/2023), toàn tỉnh xảy ra 63 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 51 người, bị thương 24 người. So cùng kỳ 2022, số vụ tăng 25 vụ, số người chết tăng 13 người, số người bị thương tăng 18 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 5.898 triệu đồng, tăng 214 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2022.
- Tình hình sạt lở: Trong tháng, xảy ra 15 vụ sạt lở với tổng chiều dài sạt lở là 425m và diện tích mất đất 2.852m2, ước thiệt hại 1.235 triệu đồng. So với tháng trước tăng giảm 12 vụ sạt lở, số tiền thiệt hại ước giảm 1.672 triệu đồng, diện tích mất đất ước tăng 1.293,76m2. So với cùng kỳ năm 2022, tăng 9 vụ sạt lở, diện tích mất đất tăng 1.633m2, ước thiệt hại giảm 170 triệu đồng (Tháng 7 năm 2022, xảy ra 6 vụ sạt lở, diện tích mất đất 1.219m2, ước thiệt hại 1.405 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay đã xảy ra 60 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 1.473,50m; diện tích mất đất 8.976,76m2; ước thiệt hại là 5.454 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ sạt lở tăng 43 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 3.392 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 6.142,76m2.
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng xảy ra 16 vụ dông lốc làm sập 6 căn nhà và tốc mái, hư hại 19 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 392 triệu đồng. So với tháng trước, tăng 14 vụ, nhà sập tăng 05 căn, nhà tốc mái hư hại tăng 18 căn, ước thiệt hại tăng 340 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, tăng 04 vụ, nhà sập tăng 01 căn, nhà tốc mái hư hại bằng nhau, ước thiệt hại giảm 750 triệu đồng (tháng 7 năm 2022, xảy ra 12 vụ giông lốc, làm sập 05 căn nhà và tốc mái, hư hại 19 căn nhà, ước thiệt hại 1.142 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay đã xảy ra 18 vụ dông lốc làm sập 07 căn nhà và tốc mái, hư hại 20 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 444 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sữa chữa nhà và 5 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 16 vụ giông lốc, làm sập 12 căn nhà, tốc mái hư hại 48 căn nhà, ước thiệt hại 1.627 triệu đồng.
- Mưa lớn, lũ, ngập lụt: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không có thiệt hại về mưa lớn, lũ, ngập lụt. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 1 vụ mưa lớn gây ngập và thiệt hại 1.464 ha lúa, 152 ha hoa màu, ước thiệt hại 1.995 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh nhưng không phát hiện vi phạm môi trường, chỉ xử lý 02 vụ đã phát hiện của các tháng trước với số tiền xử phạt là 142 triệu đồng về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm. So với tháng trước, số vụ vi phạm giảm 03 vụ, số vụ xử lý giảm bằng nhau và số tiền xử phạt giảm 132 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 05 vụ, xử lý giảm 07 vụ, số tiền xử phạt tăng 99 triệu đồng, (tháng 7 năm 2022 phát hiện vi phạm môi trường 05 vụ, xử lý 09 vụ, số tiền xử phạt 43 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 25 vụ, xử lý 25 vụ với số tiền xử phạt là 617,75 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 14 vụ, xử lý giảm 11 vụ và số tiền xử phạt tăng 53,25 triệu đồng (cộng dồn từ tháng 01 đến tháng 7 năm 2022, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 39 vụ, xử lý 36 vụ, xử phạt 564,50 triệu đồng).
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, trong tháng 7/2023 đã xảy ra 01 vụ cháy, làm thiệt hại khoảng 600 triệu đồng, tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 1.125 triệu đồng./.
[1] Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp.
[2] Nguyên nhân tăng nhiều là do từ tháng 7/2023 địa phương vận động người dân chuyển đổi diện tích lúa vụ 3 kém hiệu quả sang nuôi thủy sản, phát triển thêm khoảng 2.000 ha so với chỉ tiêu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao đầu năm 2023, nâng tổng chỉ tiêu phát triển diện tích nuôi thủy sản năm 2023 lên 11.100 ha.
[3] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Đặc biệt là nhiều hộ mở rộng hoặc chuyển đổi diện tích từ diện tích đất vườn còn trống, diện tích nuôi chưa có hiệu quả sang nuôi các đối tượng thủy sản khác có giá trị kinh tế, phù hợp nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm an toàn; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân (như nuôi ba ba).
[4] Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng so với tháng trước là do thực hiện triển khai nhanh việc lập hồ sơ, thủ tục các dự án mới đã bố trí vốn bổ sung từ đầu năm 2023; chủ đầu tư đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công các công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[5] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Vốn đầu tư năm 2023 được phân bổ tăng 14,33% (23.193,50/20.286,62 tỷ đồng) so với năm 2022. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian; được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[6] Chia ra: Ngành lưu trú thực hiện được 22,82 tỷ đồng, so tháng trước tăng 6,47% và so với cùng kỳ tăng 44,49%; Ngành ăn uống thực hiện được 576,46 tỷ đồng, so tháng trước tăng 8,92% và so cùng kỳ năm trước tăng 35,91%.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang