Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2023 tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang phát triển ổn định, nhiều giải pháp phù hợp được triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Vì vậy, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 14,21%; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,02%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 13,12%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 15,98%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tăng 7,54%; doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 19,40%. Cụ thể, kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Ước tính 6 tháng đầu năm 2023, tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá so sánh 2010) được 14.362 tỷ đồng, đạt 47,88% kế hoạch năm, tăng 14,21% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 11,00% của 6 tháng đầu năm 2022, mức tăng này cho thấy Hậu Giang đang từng bước vươn lên khẳng định mình bằng các chính sách thu hút đầu tư có hiệu quả, góp phần to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế địa phương một cách toàn diện. Cụ thể đóng góp từng khu vực như sau:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước được 3.078 tỷ đồng, tăng 4,19% so cùng kỳ (6 tháng đầu năm 2022 tăng 4,49%), đạt 43,36% kế hoạch năm, đóng góp 0,98 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP, giá trị tăng thêm được 124 tỷ đồng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy có tốc độ tăng khá là do diện tích, sản lượng rau màu tăng cao, sản lượng cây ăn quả tăng cùng với sự tăng trưởng tốt của đàn heo và gia cầm.
- Khu vực công nghiệp và xây dựng ước được 5.101 tỷ đồng, tăng 34,97% so cùng kỳ (6 tháng đầu năm 2022 tăng 26,26%) và đạt 53,24% so kế hoạch năm, đóng góp chung vào mức tăng trưởng GRDP là 10,51 điểm phần trăm, giá trị tăng thêm được 1.322 tỷ đồng, trong đó ngành công nghiệp tăng 38,92%, đóng góp 9,91 điểm phần trăm với giá trị tăng thêm được 1.246 tỷ đồng. Đóng góp nhiều nhất trong tăng trưởng ngành công nghiệp là ngành sản xuất và phân phối điện (chiếm cơ cấu 51,75% trong giá trị tăng thêm ngành công nghiệp), với tốc độ tăng 268,46%, Bên cạnh đó do ảnh hưởng của giá nguyên, vật liệu đầu vào tăng, cũng như thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, nên một số ngành có tốc độ tăng trưởng giảm như: Sản xuất, chế biến thực phẩm (chiếm 12,43% ngành công nghiệp) giảm 5,89%; Sản xuất đồ uống (chiếm 9,68% ngành công nghiệp) giảm 3,66%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (chiếm 8,75% ngành công nghiệp) giảm 9,93%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (chiếm 4,51% ngành công nghiệp) giảm 4,40%; ... dẫn đến ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,50% so với cùng kỳ năm trước.
- Khu vực dịch vụ ước được 5.129 tỷ đồng, tăng 7,73% (6 tháng đầu năm 2022 tăng 5,03%), đạt 48,56% kế hoạch năm, đóng góp 2,93 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP với giá trị tăng thêm được 368 tỷ đồng. Trong đó, một số ngành tăng trưởng khá so với cùng kỳ góp phần vào sự tăng trưởng chung của cả khu vực như: ngành Bán buôn và bán lẻ tăng 7,46%; Vận tải kho bãi tăng 10,17%; Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,64%; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 22,95%; ...
- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước được 1.054 tỷ đồng, giảm 2,48% so cùng kỳ, đạt 38,23% kế hoạch năm.
Quy mô nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 đạt 27.495 tỷ đồng. Về cơ cấu trong quy mô nền kinh tế 6 tháng như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 19,87%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,36%; khu vực dịch vụ chiếm 34,66%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 7,10%. Nhìn chung cơ cấu nền kinh tế 6 tháng năm 2023 có sự dịch chuyển giữa các khu vực so với cùng kỳ (cơ cấu tương ứng cùng kỳ lần lượt là 22,36%; 30,26%; 38,97% và 8,41%).
2. Tài chính, tín dụng
2.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 được 8.724,07 tỷ đồng, đạt 81,52% dự toán Trung ương, đạt 78,73% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 3.045 tỷ đồng, đạt 47,37% dự toán Trung ương, đạt 46,72% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 2.755 tỷ đồng, đạt 50,09% dự toán Trung ương và đạt 47,09% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 290 tỷ đồng, đạt 43,41% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp 2.253,74 tỷ đồng, đạt 49,71% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm 2023 được 6.063,45 tỷ đồng, đạt 63,50% dự toán Trung ương giao, đạt 61,15% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản được 3.842,36 tỷ đồng, đạt 80,82% dự toán Trung ương giao, đạt 76,32% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên được 2.208,02 tỷ đồng, đạt 47,39% dự toán Trung ương giao, đạt 47,09% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
2.2. Tín dụng ngân hàng
Tính đến 31/5/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 21.307 tỷ đồng, tăng trưởng 6,81% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 57,78% cho hoạt động tín dụng. Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 4,9-5,5%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 5,7-7,5%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 6,2-7,7%/năm.
Tính đến 31/5/2023, dư nợ cho vay toàn địa bàn là 36.877 tỷ đồng, tăng trưởng 5,52% so với cuối năm 2022. Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,5%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 8,5 - 12,5%/năm; trung, dài hạn từ 11,5 - 16%/năm.
3. Vốn đầu tư và Xây dựng
3.1. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 15/6/2023, kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2023 là 23.193,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.733 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 15.310 tỷ đồng.
Ước tính tháng 6/2023, vốn đầu tư thực hiện được 2.193,34 tỷ đồng, bằng 103,92%[1] so với tháng trước và bằng 119,35% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 480,70 tỷ đồng, bằng 110,58% so với tháng trước và bằng 165,57% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 172,13 tỷ đồng, bằng 95,31% so với tháng trước và bằng 190,62% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.540,51 tỷ đồng, bằng 103,03% so với tháng trước và bằng 105,72% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 11.222,60 tỷ đồng, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 112,23%, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,12%[2] và đạt 48,39% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.192,61 tỷ đồng, bằng 175,87% so với cùng kỳ năm trước và đạt 38,25% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.120,22 tỷ đồng, bằng 232,72% so với cùng kỳ năm trước và đạt 52,09% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 7.909,77 tỷ đồng, bằng 96,55% so với cùng kỳ năm trước và đạt 51,66% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
3.2. Xây dựng
Ước tính quý II/2023, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 1.704,96 tỷ đồng, tăng 16,40% so với quý trước và tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 2.860,68 tỷ đồng, tăng 16,44% so với quý trước và tăng 19,92% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do trong quý II/2023 các doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn quý trước (quý I/2023 các doanh nghiệp nghỉ từ 9 đến 15 ngày, để người lao động được vui xuân đón Tết) nên giá trị sản xuất tăng so với quý trước. Bên cạnh đó, tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do giá nguyên, vật liệu xây dựng từ đầu năm đến nay ổn định hơn cùng kỳ năm trước, nên một số công trình như: Công trình nhà không để ở và công trình kỹ thuật dân dụng đã được đầu tư và triển khai đúng tiến độ đã đề ra, nên làm giá trị sản xuất tăng so với cùng kỳ. Trong đó:
+ Công trình nhà ở thực hiện được 1.531,22 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53,53% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 18,74% so quý trước và tăng 9,45% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do một số doanh nghiệp tận dụng được thời tiết thuận lợi, tình hình giá nguyên vật liệu xây dựng ổn định, nên đẩy nhanh tiến độ các công trình nhà ở xã hội như: Xây dựng nhà nông thôn, giá trị công trình dự tính thực hiện trong quý được 8,44 tỷ đồng; Xây dựng khu nhà ở Cụm công nghiệp phường VII, thành phố Vị thanh giá trị công trình dự tính thực hiện trong quý được 23,65 tỷ đồng, Khu tái định cư Đông Phú phục vụ Khu công nghiệp Sông Hậu giá trị công trình, dự tính thực hiện trong quý được 40,36 tỷ đồng; Xây dựng nhà ở khu công nghiệp Tân Phú Thạnh trị giá dự tính trong quý được 51,25 tỷ đồng, … Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất công trình nhà ở tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
+ Công trình nhà không để ở thực hiện được 467,45 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,34% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 6,40% so với quý trước và tăng 14,14% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do hiện nay đang là mùa khô, nên một số doanh nghiệp đã đẩy nhanh tiến độ một số công trình lớn như: Xây dựng khu thương mại thành phố Ngã Bảy tổng giá trị công trình 156 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý 35,35 tỷ đồng; Xây dựng khu trung tâm thương mại Vị Thanh tại phường IV, tổng giá trị công trình 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý 66,9 tỷ đồng,… Ngoài ra, tăng một phần là do các dự án sửa chữa trụ sở làm việc cơ quan, trường học; xây mới nhà văn hóa một số xã,… Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 805,09 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 28,14% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 19,66% so với quý trước và tăng 62,92% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân các dự án công trình kỹ thuật dân dụng tăng so với quý trước là do loại công trình này là những công trình lớn, thời gian hoàn thành thường trên 12 tháng như: Đường ô tô về xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, tổng mức đầu tư gói thầu 176,8 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 16,75 tỷ đồng; Xây dựng cầu số 1 huyện Long Mỹ, tổng mức đầu tư gói thầu 81 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 20,36 tỷ đồng; Đường giao thông đô thị, tổng mức đầu tư gói thầu 250 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 21,76 tỷ đồng,… Đây là những dự án lớn của tỉnh và đã thực hiện được khoảng 4% đến trên 20% giá trị tổng công trình. Bên cạnh đó, hiện nay đang vào thời điểm thực hiện các công trình xây mới, dặm vá sửa chữa các tuyến đường nông thôn để thực hiện việc xây dựng mục tiêu nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, nên các công ty đã và đang đẩy nhanh tiến độ các gói thầu, để hoàn thành và bàn giao trong thời gian sớm nhất. Vì vậy, giá trị sản xuất các loại công trình trên còn tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ năm trước và trong những quý tiếp theo.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 56,91 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,99% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 3,35% so với quý trước và giảm 31,25% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 6 tháng năm 2023, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 3.173,64 tỷ đồng, tăng 12,34% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 5.317,45 tỷ đồng, tăng 15,67% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
+ Công trình nhà ở thực hiện được 2.820,75 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53,05% trong toàn ngành và tăng 8,14% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số dự án công trình lớn đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất của loại công trình trên như: Xây dựng khu nhà ở Cụm công nghiệp phường VII, thành phố Vị thanh, tổng giá trị công trình 155,9 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 43,98 tỷ đồng, chiếm 28,21% khối lượng công trình; Khu tái định cư Đông Phú phục vụ Khu công nghiệp Sông Hậu, tổng giá trị công trình 250 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 75,56 tỷ đồng, chiếm 30,22% khối lượng công trình; Xây dựng nhà ở khu công nghiệp Tân Phú Thạnh, tổng giá trị công trình 256,9 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 86,9 tỷ đồng, chiếm 33,83% khối lượng công trình.
+ Công trình nhà không để ở thực hiện được 906,78 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,05% trong toàn ngành và giảm 5,70% so với cùng kỳ. Một số dự án lớn đã đóng góp giá trị sản xuất vào công tình xây dựng nhà không để ở như: Xây dựng khu thương mại thành phố Ngã Bảy, tổng giá trị công trình 156,6 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 67,85 tỷ đồng, chiếm 43,32% khối lượng công trình; Xây dựng khu trung tâm thương mại vị thanh Tại phường 4, tổng giá trị công trình 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 122,05 tỷ đồng, chiếm 30,51% khối lượng công trình … Riêng, cơ sở hạ tầng như: Nhà kho; nhà xưởng xí nghiệp, nhà máy… trong các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản đã hoàn thiện, nên công trình xây dựng nhà không để ở có giảm nhẹ so với cùng kỳ.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 1.477,92 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 27,79% trong toàn ngành và tăng 66,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số dự án công trình lớn đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất của loại công trình trên như: Đường ô tô về xã Vĩnh viễn A-Long Mỹ, tổng giá trị công trình 176,8 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 46,5 tỷ đồng, chiếm 26,3% khối lượng công trình; Công trình điện, nước, chiếu sáng .... Kho lạnh GD2, tổng giá trị công trình 166,96 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 81 tỷ đồng, chiếm 48,51% khối lượng công trình; Đường giao thông đô thị, tổng giá trị công trình 250 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 44,6 tỷ đồng, chiếm 5,6% khối lượng công trình; Xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng giá trị công trình 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 32,15 tỷ đồng, chiếm 8,1% khối lượng công trình; Đường cao tốc Cần Thơ - TP. HCM, tổng giá trị công trình 614 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong 6 tháng đầu năm được 17,75 tỷ đồng, chiếm 2,89% khối lượng công trình … các công trình trên đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Vì vậy, giá trị sản xuất công trình này tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 111,99 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,21% trong toàn ngành và giảm 18,16% so với cùng kỳ năm trước.
Đến nay, tình hình xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào các công trình nhà ở và đường giao thông. Riêng một số công trình trọng điểm thuộc ngân sách nhà nước có qui mô lớn thì hầu hết đều do các doanh nghiệp ngoài tỉnh thi công. Do vậy, đề nghị các cấp, các ngành có kế hoạch cụ thể, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp xây dựng trong tỉnh được thi công nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành xây dựng của tỉnh tăng cao.
4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng (tính từ ngày 19/5/2023 - 16/6/2023), toàn tỉnh có 50 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng số vốn đăng ký là 225,31 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 36% về số lượng doanh nghiệp và về vốn giảm 31,3%); có 15 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 458,40 tỷ đồng; có 15 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 21,30 tỷ đồng.
Lũy kế từ đầu năm đến nay có 380 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng vốn đăng ký là 1.354,31 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 22% về số lượng doanh nghiệp và về số vốn doanh nghiệp đăng ký giảm 56%); có 121 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn 581,20 tỷ đồng; có 36 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn 50,10 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 58% về số doanh nghiệp, về vốn giảm 54%). Nguyên nhân giải thể do kinh doanh không hiệu quả.
Xu hướng sản xuất kinh doanh: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 234 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 56,41% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất tăng hơn so với quý trước, có trên 30,77% doanh nghiệp đánh giá không có biến động nhiều so với quý trước và còn lại 12,82% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất gặp khó khăn sản lượng không tăng so với quý trước. Vì vậy, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, một số ngành hiện tại đang gặp khó khăn, có khả năng phục hồi mạnh mẽ và tăng trưởng ổn định trở lại so với cùng kỳ trong thời gian sắp tới.
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong 6 tháng đầu năm 2023, ngành Nông nghiệp chủ yếu tập trung vào sản xuất lúa vụ Đông xuân và Hè thu. Tăng cường tập huấn các kỹ thuật canh tác đầu vụ, bón phân cân đối, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, các biện pháp quản lý dịch hại đầu vụ,… góp phần giảm chi phí giá thành sản xuất. Đồng thời, vận động người dân tăng cường xuống giống rau màu tại các vùng có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp và đảm bảo nhu cầu tưới tiêu góp phần nâng cao giá trị tăng trưởng (GRDP) khu vực I. Tình hình chăn nuôi vẫn phát triển ổn định, dịch bệnh đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Kết quả cụ thể từng lĩnh vực như sau:
5.1. Nông nghiệp
5.1.1 Trồng trọt
Lúa Đông xuân 2022-2023: Xuống giống đạt 75.501,2 ha, đạt 100,67% kế hoạch tỉnh (75.000 ha), giảm 1,47% so với cùng kỳ (bằng 1.124,9 ha). Vụ Đông xuân năm nay đa số người dân lựa chọn giống chất lượng cao chiếm trên 90% toàn tỉnh, các giống lúa sử dụng chủ yếu là RVT chiếm 32,8%, Đài Thơm 8 chiếm 26,4%, OM18 chiếm 20,9%, OM5451 chiếm 7%, ST25 chiếm 4,1%, ST24 chiếm 4%, còn lại chiếm 4,8% gồm các giống khác như: OM380, IR50404, Jasmine85,… Hiện, đã thu hoạch dứt điểm. Chính thức năng suất đạt 77,53 tạ/ha, giảm 0,36% (bằng 0,28 tạ/ha), đạt 100,18% so với kịch bản 6 tháng đầu năm (77,39 tạ/ha). Sản lượng đạt 585.361 tấn, giảm 1,82% (bằng 10.867 tấn) so với cùng kỳ, đạt 100,85% so với kịch bản 6 tháng đầu năm (580.417 tấn). Giá lúa tươi tại ruộng một số giống như sau: OM18, Đài thơm 8 có giá giao động từ 6.500-6.800 đ/kg (tăng 700-1.000 đ/kg so với cùng kỳ), RVT có giá từ 7.000-7.200 (tương đương so với cùng kỳ), OM5451 có giá từ 6.300-6.500 đ/kg (tăng 500-6.00 đ/kg so với cùng kỳ).
Lúa Hè thu 2023: Đến nay đã xuống giống dứt điểm được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Lúa hiện đang giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ chín, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu tập trung các giống: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, còn lại các giống khác chiếm 3,5%… Hiện nay đã thu hoạch được 1.279 ha, tập trung ở huyện Châu Thành A, các huyện còn lại đang chuẩn bị thu hoạch.
Mía niên vụ 2022-2023: Xuống giống được 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 38 ha nhiễm sinh vật gây hại (tăng 03 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước được 1.718,3 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 11,93% (bằng 183,2 ha). Ước năng suất đạt 61,14 tạ/ha, giảm 0,02% (bằng 0,01 tạ/ha). Ước sản lượng được 8.395,95 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 9,43% (bằng 723,66 tấn). Diện tích gieo trồng tăng do thay đổi mùa vụ dẫn đến sản lượng thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng ước được 12.860,08 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,75% (bằng 924,96 ha). Ước sản lượng được 130.756,05 tấn, tăng 9,03% (bằng 10.826,55 tấn) so với cùng kỳ .
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của tỉnh:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.114,55 ha, tăng 3,06% (bằng 92,6 ha) so với cùng kỳ, sản lượng 6 tháng ước 15.650,96 tấn, đạt 34,1% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 7,1% (bằng 1.057,55 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.669,84 ha, tăng 4,3% (bằng 68,84 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 6 tháng ước được 4.210,15 tấn, đạt 23,39% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,44% (bằng 217,22 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá. Diện tích trồng nhiều ở các huyện như Phụng Hiệp (457,91 ha), huyện Long Mỹ (364,71 ha), thị xã Long Mỹ (315,87 ha).
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.938,6 ha, tăng 11,8% (bằng 1.048,6 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 6 tháng được 20.732,40 tấn, đạt 21,6% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 37,5% (bằng 5.654,58 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao. Tập trung nhiều ở huyện Châu Thành (6.020,29 ha), thành phố Ngã Bảy (1.697,86 ha) và huyện Phụng Hiệp (1.085,53 ha).
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.788,9 ha, tăng 0,61% (bằng 16,9 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 6 tháng được 4.446,66 tấn, đạt 9,5% so với kế hoạch (46.800 tấn) và tăng 5,8% (bằng 243,77 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất tăng, tập trung nhiều ở các huyện Phụng Hiệp (1.438,34 ha), huyện Châu Thành A (552,71 ha) và huyện Châu Thành (335,75 ha).
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 720,04 ha, tăng 4,32% (bằng 29,84 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 6 tháng được 1.412,99 tấn, đạt 15,23% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,34% (bằng 96,62 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
5.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt … Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính tháng 6/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu: Ước được 1.266 con, giảm 11,1% (bằng 158 con) so với cùng kỳ, đạt 86,65% so với kịch bản cả năm 2023 (1.461 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước được 74 tấn, giảm 5,44% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp nên số lượng nuôi và sản lượng giảm.
- Đàn bò ước được 3.948 con, tăng 7,17% (bằng 264 con) so với cùng kỳ, đạt 107,11% so với kịch bản 6 tháng đầu năm (3.686 con), đạt 106,76% so với kịch bản cả năm 2023 (3.698 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước được 121 tấn, tăng 6,02% so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do giá cả ổn định, dịch bệnh ít xảy ra, người chăn nuôi có lãi nên tăng số lượng nuôi.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 144.801 con, tăng 1,03% (bằng 1.481 con) so với cùng kỳ, đạt 97,27% so với kịch bản cả năm 2023 (148.861 con). Trong đó: Heo thịt 102.570 con, tăng 1,26% (bằng 1.280 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước được 11.501 tấn, tăng 7,50% so với cùng kỳ. Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.449,87 ngàn con, tăng 2,46% (bằng 106,99 ngàn con) so với cùng kỳ, đạt 98,74% so với kịch bản cả năm 2023 (4.506,87 ngàn con). Trong đó: đàn gà 1.770,06 ngàn con, tăng 5,12% (bằng 86,24 ngàn con) so cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước được 7.902 tấn, tăng 5,22% so với cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
5.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Ước thực hiện tháng 6/2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 362,16 ngàn cây, so với cùng kỳ giảm 0,35% (bằng 1,28 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 863 m3, tăng 26,54% (bằng 181 m3). Sản lượng củi khai thác khoảng 4.353 ste, giảm 10,45% (bằng 508 ste) so với cùng kỳ.
Ước thực hiện 6 tháng năm 2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.034,04 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 1,78% (bằng 18,06 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 5.866 m3, tăng 0,96% (bằng 56 m3). Sản lượng củi khai thác khoảng 51.584 ste, tăng 0,83% (bằng 427 ste) so với cùng kỳ.
5.3. Thủy sản
Trong tháng 6/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 1.547,7 ha, tăng 1,52% (bằng 23,12 ha) so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 5.202,31 ha, đạt 57,17% so kế hoạch năm (9.100 ha) và tăng 1,49% (bằng 76,26 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá 5.036,6 ha, tăng 1,51% (bằng 74,83 ha). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 58,96 ha, tăng 1,36% (bằng 0,79 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm 97,2 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác 68,51 ha, tăng 1,08% (bằng 0,73 ha); Thể tích nuôi lươn được 6.210 m3, tăng 2,71% (bằng 164 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 6/2023, tổng sản lượng thủy sản được 4.630,48 tấn, tăng 4,3% (bằng 190,88 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng sản lượng thủy sản ước được 31.452,35 tấn, tăng 3,54%3 (bằng 1.076,69 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 6 tháng ước được 1.417,64 tấn, giảm 1,3% (bằng 18,7 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng ước được 30.034,71 tấn, tăng 3,79% (bằng 1.095,39 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 513,32 tấn, tăng 3,13% (bằng 15,56 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 226,4 tấn, tăng 8,02% (bằng 16,81 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định và đây là hai sản phẩm chủ lực của tỉnh.
6. Tình hình sản xuất công nghiệp
Ước thực hiện tháng 6/2023, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.592,87 tỷ đồng, tăng 7,24% so với tháng trước và tăng 20,87% so với cùng kỳ năm trước; Tính theo giá hiện hành, được 6.158,23 tỷ đồng, tăng 7,65% so với tháng trước và tăng 36,72% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 6 trên 595 triệu kwh, tăng 7,99% so với tháng trước và tăng 299,49% so với cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm trước các tổ máy đang trong thời gian chạy thử, nên sản lượng đạt chỉ 148,94 triệu kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến giá trị sản xuất ngành này so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, tăng một phần là do thị trường tiêu thụ trong nước đã phục hồi và nhu cầu dự trữ lượng hàng hóa lớn, để phục vụ dịp Tết Đoan Ngọ năm 2023 (Mùng 5 tháng 5 sắp đến), nên một số ngành sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng sản lượng sản xuất so với cùng kỳ như: Sản xuất nước mắm được 7.301 ngàn lít, tăng rất cao so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi được 1.390 tấn, tăng 10,06% so với cùng kỳ; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản được 28.900 tấn, tăng 25,41% so với cùng kỳ;... Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp ước tháng 6 tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 6 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 18.530,43 tỷ đồng, tăng 10,56% so với cùng kỳ năm trước và đạt 47,54% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 31.801,41 tỷ đồng, tăng 22,86% so với cùng kỳ năm trước và đạt 49,13% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 7.181,27 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22,58% trong toàn ngành và tăng 312,61% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 233 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 19.342,04 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,82% trong toàn ngành và tăng 5,39% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 5.278,09 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,60% trong toàn ngành và giảm 8,86% so với cùng kỳ.
Đối với Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 6/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 1,92% so với tháng trước và tăng 7,98% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,52% so với tháng trước và tăng 2,34% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 7,33% so với tháng trước và tăng 246,27% so với cùng kỳ (Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 6 trên 595 triệu kwh, tăng 7,99% so với tháng trước và tăng 299,49% so với cùng kỳ năm trước, cùng thời điểm năm trước các tổ máy đang trong thời gian chạy thử, nên sản lượng chỉđược 148,94 triệu kwh); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,93% so với tháng trước và tăng 14,55% so với cùng kỳ năm trước (Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, hoạt động liên tục, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân, sản lượng sản xuất nước sạch sinh hoạt ước tháng 6 năm 2023 được 2.399,30 ngàn M3 tăng 22,16% so với cùng kỳ năm trước).
Dự tính 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,02% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 13,23% của 6 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng lớn, trên 76,18% trong toàn ngành và tăng 7,47% so với cùng kỳ (thấp hơn mức tăng 11,22% của 6 tháng năm 2022 so với cùng kỳ); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 264,36% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn rất nhiều mức tăng 494,69% của 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,88% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn mức tăng 10,16% của 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ ). Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) chung của toàn tỉnh tăng so với cùng kỳ nhưng thấp hơn mức tăng 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ (năm 2022 Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu 1 mới xây dựng hoàn thành đi vào hoạt động, nên làm tăng đột biến ngành này).
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ như sau:
- Sản lượng nước mắm sản xuất được 43.835 ngàn lít, tăng 1.248,77% so với cùng kỳ năm trước, đạt 67,77% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 724,15 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,58% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 2,28% trong toàn ngành và sản lượng mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 7.284 tấn, tăng 8,02% so với cùng kỳ năm trước, đạt 83,74% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 307,89 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,22% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 0,97% trong toàn ngành, đây cũng là 2 sản phẩm chủ lực của Công ty TNHH MTV Masan HG. Ngoài ra, đến thời điểm hiện tại doanh nghiệp mới đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất sữa, với sản lượng dự tính được 1,12 triệu lít/tháng, các sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, thuộc nhóm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và được phân phối trực tiếp đến các hệ thống siêu thị trong vùng, nên thị trường của doanh nghiệp hết sức ổn định và có khả năng tăng trưởng cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 182.467 tấn, đạt 87,39% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và tăng 13,28% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.257,11 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 23,64% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 7,10% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 118,04 triệu lít, đạt 89,67% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và tăng 4,82% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.631,27 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57,31% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 5,13% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan HG, mới đầu tư hoàn thành và đưa vào sử dụng dây chuyền sản xuất, nước uống tăng lực vị cà phê Wake up 247, với sản lượng sản xuất trên 6 triệu lít/tháng và Công ty TNHH Number One Hậu Giang tăng sản lượng đột biến trong những tháng vừa qua, nên đã làm tăng giá trị sản xuất 6 tháng năm 2023 ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung so với cùng kỳ.
- Sản lượng điện sản xuất được 3.014,34 triệu kwh, đạt 106,66% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và tăng 334,20% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 7.050,48 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,67% trong ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 22,17% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do sau thời gian vận hành chính thức nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, đã hoạt động ổn định và sản lượng điện sản xuất 6 tháng đầu năm tăng đột biến so với cùng kỳ (cùng thời điểm năm 2022 doanh nghiệp đang trong giai đoạn chạy thử nên sản lượng điện sản xuất được 694,23 triệu Kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến ngành này so với cùng kỳ năm trước
Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của giá nguyên, vật liệu đầu vào tăng, cũng như thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, nên một số sản phẩm công nghiệp sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường xuất khẩu giảm sản lượng sản xuất như:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 11.856 tấn, đạt 52,42% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và giảm 37,61% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 3.343,45 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,02% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 10,51% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do hiện nay doanh nghiệp đang thiếu đơn hàng xuất khẩu, do kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát tăng cao. Tại các nước vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp, có hiện tượng người dân cắt giảm chi tiêu khiến hàng tồn kho của doanh nghiệp còn nhiều dẫn đến giá cá, tôm giảm mạnh từ 20% đến 30% so với cuối năm 2022, dù đã giảm giá, nhưng vẫn rất khó ký được các hợp đồng mới. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm, ngành chế biến, bảo quản thủy sản giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chai được 33,81 triệu lít, đạt 50,56% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và giảm 32,15% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 372,50 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,09% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 1,17% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Mtv Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, Hiện tại ý thức của người dân, không sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông đã đi vào cuộc sống, nên tình hình tiêu thụ rượu, bia giảm nhiều so với trước, Vì vậy, nhà máy cũng cắt giảm sản lượng sản xuất so với cùng kỳ, để hạn chế hàng tồn kho nhiều, ảnh hưởng đến vốn sản xuất của doanh nghiệp.
- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 7.533,49 ngàn đôi, đạt 75,38% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và giảm 13,31% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.109 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 80,27% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 6,63% trong toàn ngành. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu năm doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình tiêu thụ, nên doanh nghiệp giảm sản lượng so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 222.210 tấn, đạt 93,71% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh và giảm 3,21% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.648,74 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,39% trong ngành sản xuất giấy và chiếm tỷ trọng 8,33% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do chi phí nhập khẩu nguyên, vật liệu tăng cao, cũng như giá thành sản phẩm cũng tăng, nên đơn hàng của doanh nghiệp giảm nhẹ so với cùng kỳ. Vì vậy, doanh nghiệp cắt giảm một số đơn hàng không hiệu quả kinh doanh so với những tháng cuối năm 2022.
7. Hoạt động thương mại, dịch vụ
7.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Trong tháng 5 và đầu tháng 6 tỉnh Hậu Giang tổ chức các sự kiện có quy mô lớn: Tuần lễ chuyển đổi số và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Mekong Delta 2023 với sự tham gia của hơn 3.000 đại biểu; chương trình tuần lễ Nasa Việt Nam với hơn 1.900 đại biểu tham dự cùng nhiều hoạt động sự kiện khác trong tháng hành động vì công nhân; quốc tế thiếu nhi 1/6; ngày môi trường thế giới 5/6; chương trình hiến máu nhân đạo “giọt máu hồng”,…. Các sự kiện được tổ chức với sự tham gia đông đảo của các đại biểu nên diễn ra rất sôi động mang lại nhiều ý nghĩa tích cực trong hoạt động phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tổng doanh thu các ngành thương mại và dịch vụ trên địa bàn trong tháng 6/2023 tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định ước thực hiện được 4.741,59 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,37% và so với cùng kỳ năm trước tăng 20,92%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.613,01 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,66% và so với cùng kỳ tăng 21,59%. Hoạt động thị trường bán lẻ trong tháng 6 các nhóm ngành hàng bán lẻ vẫn tăng trưởng đều theo tốc độ tăng của các tháng đầu năm. Trong đó, nhóm lương thực thực phẩm là nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn và có mức tăng cao trên 30%, cụ thể tăng 34,47% so với cùng kỳ, do ảnh hưởng của thời tiết thay đổi không thuận lợi cho vụ mùa nông sản nên giá bán các mặt hàng này tăng cao trên thị trường làm doanh thu tăng. Các nhóm hàng khác còn lại có mức tăng dao động trong khoảng từ 5% trở lên tùy từng nhóm hàng. Riêng nhóm phương tiện đi lại (xe máy, mô tô, …) lại giảm mạnh, giảm 28,51%. Do thị trường xe máy “tuột dốc” dù các đại lý xe đã đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi, giảm giá bán về bằng hoặc thấp hơn giá đề xuất của các hãng đối với một số loại xe (xe máy Vision giá giảm khoảng 45% so với cùng kỳ, cùng kỳ 60 triệu/chiếc) để kích cầu mua sắm nhưng lượng khách hàng vẫn không nhiều, doanh số vẫn sụt giảm.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 564,48 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 4,02% và so với cùng kỳ năm trước tăng 32,46%. Động lực tăng trưởng của cả tỉnh trong tháng 6 chủ yếu được đóng góp từ các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú và ăn uống trên địa bàn thành phố Vị Thanh. Nhiều sự kiện được tổ chức với sự tham gia của nhiều đại biểu nên nhu cầu ở và ăn uống tăng cao hơn so với bình thường. Trong đó: Ngành lưu trú ước được 20,85 tỷ đồng, so tháng trước tăng 5,48% và so với cùng kỳ tăng 40,18%; Ngành ăn uống ước được 543,64 tỷ đồng, so tháng trước tăng 3,96% và so cùng kỳ năm trước tăng 32,18%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 564,09 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 2,86% và so với cùng kỳ năm trước tăng 7,72%.
Ước thực hiện 6 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 27.240,36 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,98%, so với kế hoạch năm đạt 51,42% và so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 100,64%. Cơ cấu các nhóm ngành đóng góp vào sự tăng trưởng chung của thương mại và dịch vụ vẫn ổn định. Doanh thu hoạt động bán lẻ vẫn là ngành chủ lực đóng góp chủ yếu vào tốc độ tăng trưởng chung. Tốc độ tăng 6 tháng ngành bán lẻ đạt mức 15,60%, đóng góp 12,06% vào tổng tăng trưởng chung. Các hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống cùng một số nhóm ngành dịch vụ tiêu dùng khác trong 6 tháng đầu năm tiếp tục tăng trưởng ổn định và có mức tăng cao so với cùng kỳ ở mức 22,33% và 12,88% đóng góp vào mức tăng trưởng chung lần lượt ở mức 1,85% và 2,07% (chiếm tỷ trọng không cao). Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 20.552,68 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,60%4. Cơ cấu tổng thể các nhóm hàng vẫn không có thay đổi. Lương thực thực phẩm vẫn là nhóm hàng chủ lực chiếm 43,15% tổng doanh thu và có đà tăng trưởng cao trong 6 tháng đầu năm ở mức 38,37%. Các nhóm hàng tương đối lớn khác bao gồm: Trang thiết bị gia đình chiếm 8,31% tổng doanh thu giảm 7,16%; Gỗ và vật liệu xây dựng chiếm 10,57% tổng doanh thu giảm 8,82% do giai đoạn cùng kỳ giá bán lẻ thép cùng một số mặt hàng vật liệu xây dựng tăng cao đưa giá trị doanh thu tăng đột biến, đến năm 2023 giá bán trên thị trường đối với các sản phẩm này đã bình ổn doanh thu được tạo ra thấp hơn; Xăng dầu chiếm 19,41% tổng doanh thu tăng 2,86%, nguyên nhân do nguồn cung xăng dầu đầy đủ thường xuyên hơn so với cùng kỳ (năm 2022 chuỗi cung ứng đứt quãng do giá xăng tăng cao có thời điểm lên 33.000 đồng/lít) nên có sản lượng tiêu thụ tăng làm doanh thu tăng.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 3.153,10 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 22,33%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 112,30 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 47,84%; Ngành ăn uống, ước tính được 3.040,80 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,56%. Hoạt động 6 tháng đầu năm ngành lưu trú ăn uống giữ được sự tăng trưởng ổn định. Doanh thu của 2 hoạt động kinh doanh này đều tăng cao so với cùng kỳ, nguyên nhân do cùng thời điểm 2022 còn ảnh hưởng một phần dịch bệnh hoạt động ăn uống lưu trú chưa hồi phục hoàn toàn giá trị doanh thu tạo ra còn thấp; mặt khác tỷ lệ lạm phát tăng do ảnh hưởng từ sự tăng trưởng kinh tế và các yếu tố bên ngoài về chuỗi cung ứng hàng hóa đã đẩy giá bán các sản phẩm ăn uống và giá dịch vụ lưu trú tăng thêm so với năm 2022 (tăng khoảng 14 - 16%). Riêng hoạt động lưu trú các cơ sở kinh doanh lưu trú mới (chi nhánh hệ thống khách sạn SOJO) với qui mô lớn đã chính thức đi vào hoạt động và có lượng khách nhất định đã góp phần thúc đẩy doanh thu tăng cao hơn so với cùng kỳ.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 3.534,58 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,88%. Các ngành dịch vụ tiêu dùng khác (hành chính hỗ trợ, vui chơi giải trí, giáo dục, y tế,…) về cơ bản có giá trị doanh thu ổn định và có tăng trưởng so với cùng kỳ ở mức cao (tốc độ tăng trong khoảng từ 12-65%). Riêng hoạt động kinh doanh bất động sản do thị trường giao dịch trầm lắng không có nhiều hợp đồng được ký kết thành công đã khiến giá trị giảm sâu so với cùng kỳ, doanh nghiệp có giá trị lớn chiếm tỷ trọng hơn 50% của toàn ngành từ đầu năm đến nay không phát sinh giá trị doanh thu.
7.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 6/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 109,23 triệu USD so với tháng trước bằng 95,29% và so với cùng kỳ năm trước bằng 141,70%.Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 69,38 triệu USD, so với tháng trước bằng 84,21% và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,53%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 39,85 triệu USD, so với tháng trước bằng 123,61% và so với cùng kỳ năm trước bằng 214,84%.
Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 575,04 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 107,54%, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 97,15% và so với kế hoạch năm đạt 50,43%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 353,92 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 108,80%, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 91,30% và so với kế hoạch năm đạt 48,02%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do giá trị xuất khẩu của nhóm hàng thủy hải sản chế biến (chiếm 28,27% tổng giá trị xuất khẩu) tăng 5,13%; hàng hóa khác (chiếm 21,51% tổng giá trị xuất khẩu) tăng 30,20% và hàng rau quả (chiếm 2,82% tổng giá trị xuất khẩu) tăng 3,86%. Mặt hàng giày dép các loại (chiếm 29,23% tổng giá trị xuất khẩu) có giá trị giảm 4,48% so với cùng kỳ nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến giá trị xuất khẩu tăng của toàn tỉnh.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 200,96 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,19%, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 109,92% và so với kế hoạch năm đạt 55,78%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do giá trị nhập khẩu của các nhóm hàng giấy các loại (chiếm 32,12% tổng giá trị nhập khẩu) tăng 2,72%, hóa chất (chiếm 16,47% tổng giá trị nhập khẩu) tăng 29,15%, máy móc thiết bị (chiếm 4,84% tổng giá trị nhập khẩu) tăng 95,97%, thức ăn gia súc và nguyên liệu (chiếm 2,62% tổng giá trị nhập khẩu) tăng 3,72%. Vì vậy, giá trị nhập khẩu tăng.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,15 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 26,25%, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 41,72% và so với kế hoạch năm đạt 16,68%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 20,01 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 93,70%, so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng của tỉnh bằng 94,99% và so với kế hoạch năm đạt 47,50%.
Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp 6 tháng đầu năm 2023 có sự tăng trưởng khá cao, ở mức khoảng 8,21% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (trong nước chiếm 58,87%, doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 41,13% tổng giá trị chung). Về mức tăng trưởng ở mỗi khu vực, mặc dù số lượng doanh nghiệp FDI ít hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước nhưng giá trị xuất khẩu mà doanh nghiệp tạo ra cũng gần tương đương so với doanh nghiệp trong nước.
Về thị trường xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2023, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 71 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu tăng thêm 5 quốc gia (bằng 107,58% so cùng kỳ). Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp không có sự thay đổi nhiều so với năm trước, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là Châu Á (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) chiếm giá trị lớn nhất, Châu Mỹ (trong đó khu vực Bắc Mỹ) là chủ yếu,Châu Âu khu vực các nước khối liên minh Châu Âu (EU) là chủ yếu. Giá trị xuất khẩu của các khu vực này có sự tăng giảm lẫn nhau so với cùng kỳ năm trước nhưng nhìn chung mức tăng vẫn chiếm ưu thế nhiều hơn. Cụ thể, giá trị xuất khẩu của các khu vực trên so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: khu vực Châu Á tăng 6,97% (chiếm tỷ trọng 52,83%), Châu Mỹ tăng 32,65% (chiếm tỷ trọng 27,89%), khu vực Châu Âu giảm 32,56% (chiếm tỷ trọng 12,04%) đây là khu vực xuất khẩu có giá trị giảm nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước; còn lại là các khu vực khác (chiếm tỷ trọng 7,24%).
Qua 6 tháng đầu năm 2023 một số thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng lớn có quan hệ giao thương với các doanh nghiệp trên địa bàn có mức tăng trưởng trở lại so với cùng kỳ năm trước, trong đó thị trường Hoa Kỳ tăng 42,86%, Singapo tăng 113,66%, Đài Loan tăng 270,52%, Nhật Bản tăng 18,06%. Tuy nhiên thị trường Trung Quốc giảm 46,33% so với cùng kỳ, ngoài các thị trường trên thì tổng chung tất cả các thị trường còn lại vẫn có mức tăng trưởng. Do đó, đã giúp tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa trực tiếp chung 6 tháng đầu năm vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 8,80%.
7.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Ước tính tháng 6/2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 137,67 tỷ đồng so với tháng trước giảm nhẹ 0,29%, chủ yếu do hoạt động vận chuyển hàng hóa đường bộ của các doanh nghiệp giảm sản lượng nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn giữ được mức tăng cao, tăng 15,74%. Tốc độ tăng là do sự đóng góp tăng trưởng đều ở cả 3 khu vực vận tải đường bộ, đường thủy và các dịch vụ kho bãi, logistic đều có mức tăng cao lần lượt 17,36%, 12,56% và 15,40%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 70,82 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 98,47% và so với cùng kỳ năm trước bằng 117,36%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,78 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,58% và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,56%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 36,07 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,40%.
Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 801,54 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 119,40%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 422,88 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 136,43%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 184,84 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 119,62%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 193,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 93,72%.
Hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm được đánh giá giữ được đà tăng trưởng tốt, mức tăng giữa các tháng giữ được sự ổn định. Trong đó, doanh thu vận tải khu vực doanh nghiệp ngày càng giữ vị trí vai trò quan trọng trong tổng thể ngành vận tải. Tổng doanh thu 6 tháng của cả khu vực ước được 495,41 tỷ đồng, tăng 17,57% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng đến hơn 60% tổng doanh thu chung, cá thể chỉ chiếm gần 40%, mức tăng đó chủ yếu do hoạt động vận tải hàng hóa đường bộ của các doanh nghiệp lớn trên địa bàn Châu Thành A đóng góp. Với nổ lực kêu gọi đầu tư của tỉnh xây dựng Hậu Giang trở thành trung tâm logistic trong tương lai thì hiện nay số lượng các doanh nghiệp có quy mô lớn hoạt động trong lĩnh vực kho bãi, hỗ trợ vận tải, logistic tham gia đầu tư trên địa bàn được gia tăng thêm ngày càng nhiều hơn so với các năm trước. Do đó, hoạt động vận tải và các dịch vụ kho bãi trong tương lai được dự báo sẽ có mức tăng trưởng cao, góp phần đưa ngành vận tải ngày càng có tầm quan trọng hơn trong sự tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội chung trên địa bàn.
7.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 6/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 482,15 nghìn tấn hàng hóa các loại (82.087,92 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,45% (101,98%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 134,91% (152,40%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 114,41 nghìn tấn (18.704,56 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 97,83% (98,13%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,06% (138,53%).
- Đường sông thực hiện được 367,74 nghìn tấn (63.383,37 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,63% (103,17%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 155,14% (157,05%).
Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 2.945,51 nghìn tấn hàng hóa các loại (471.231,16 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 137,48% (182,62%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 700,92 nghìn tấn (112.890,73 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 94,23% (174,95%).
- Đường sông thực hiện được 2.244,59 nghìn tấn (358.340,43 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 160,48% (185,17%).
7.3.2 Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 6/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.398,20 nghìn lượt hành khách (49.675,64 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 101,74% (101,82%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,08% (93,30%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 209,07 nghìn lượt hành khách (42.930,83 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,80% (101,66%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,14% (93,61%).
- Đường sông vận chuyển được 2.189,14 nghìn lượt hành khách (6.744,82 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,74% (102,84%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 114,01% (91,34%).
Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 14.843,52 nghìn lượt hành khách (287.756,92 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 125,08% (94,77%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 1.182,55 nghìn lượt hành khách (246.687,65 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 94,57% (93,04%). Nguyên nhân giảm so cùng kỳ do đơn giá vận chuyển các tuyến đi Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh và dịch vụ cho thuê xe du lịch tăng hơn so với cùng kỳ năm trước làm giảm nhu cầu đi lại của người dân, giảm sản lượng vận chuyển.
- Đường sông vận chuyển được 13.660,97 nghìn lượt hành khách (41.069,28 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 128,68% (106,67%).
8. Các vấn đề về xã hội
8.1. Giáo dục
Toàn ngành có 317 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường; tiểu học có 149 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam) và 23 trường trung học phổ thông (trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh). Giáo dục thường xuyên có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Quy mô học sinh năm học 2022-2023: Huy động được 159.673/155.855, tỷ lệ 102,44%, cụ thể như sau:
- Nhà trẻ 2.879/2.638, tỷ lệ 109,13%.
- Mẫu giáo 25.014/24.562, tỷ lệ 101,8%.
- Giáo dục phổ thông:
+ Tiểu học: 66.256/64.806 đạt tỉ lệ 102,23%.
+ THCS: 45.000/44.517, đạt tỉ lệ 101,08%.
+ THPT: 20.524/19.332, đạt tỉ lệ 106,2%.
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 9.731 người. Trong đó: có 781 cán bộ quản lý, 8.950 chuyên viên, giáo viên và nhân viên thuộc các cấp học, 313 thạc sĩ. Tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp học mầm non đạt chuẩn 97,54%; trên chuẩn 74,37%; cấp tiểu học đạt chuẩn 91,16%; trên chuẩn 0,80%; cấp trung học cơ sở đạt chuẩn 93,56%; trên chuẩn 0,69%; cấp trung học phổ thông đạt chuẩn 99,91%; trên chuẩn 20,09%; Giáo dục thường xuyên đạt chuẩn 100%; trên chuẩn 17,33%.
Trong tháng, toàn ngành tập trung vào công tác chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Tổ chức tập huấn sử dụng sách giáo khoa lớp 4, lớp 8, lớp 11 năm học 2023-2024 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
- Tổ chức tập huấn công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non năm 2023.
- Hướng dẫn tuyển sinh mầm non, lớp 1 năm học 2023-2024.
- Thông báo danh mục sách giáo khoa môn Lịch sử 10 (bổ sung) theo chương trình GDPT 2018.
- Tổ chức Kỳ thi Tuyển sinh vào lớp 10 THPT, THPT chuyên năm học 2023–2024.
- Hoàn thành các bước chuẩn bị cho Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 (ngày thi chính thức là 28 và 29/6/2023).
8.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Trong 6 tháng đầu năm, toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tập trung tuyên truyền ý nghĩa các ngày Lễ lớn của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là Mừng Đảng quang vinh – Mừng Xuân Quý Mão 2023, kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2023), tuyên truyền bầu cử Trưởng ấp, khu vực nhiệm kỳ 2023 – 2025 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang… Kết quả: In mới và lắp đặt: 18.262,8m2 panô các loại, tin ảnh, tranh cổ động; treo hơn 25.340 cờ các loại, 910 băng rol.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm báo Xuân với 400 loại Báo Xuân của các báo Trung ương và ấn phẩm Xuân của các tỉnh, thành phố trong cả nước, 16 ấn phẩm dự thi của các huyện, thị, thành phố và các sở, ban ngành trong tỉnh; triển lãm 1.000 quyển sách chuyên đề về Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, sách về Biển đảo Việt Nam, sách về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội tỉnh Hậu Giang, sách mới các loại. Hội báo Xuân khai mạc vào ngày 16/01 và phục vụ bạn đọc đến ngày 30/01/2023 tại Thư viện tỉnh Hậu Giang, thu hút 4.050 lượt người xem.
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức 30 cuộc triển lãm ảnh phục vụ các nhiệm vụ chính trị như: “Mừng Đảng quang vinh, Mừng Xuân Quý Mão năm 2023, Hội báo Xuân – Triển lãm ảnh và cuộc thi bình chọn ấn phẩm Xuân Quý Mão năm 2023, Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt nam 03/02/2023,…Tiếp 141 đoàn khách tham quan tại các di tích Chiến thắng Chương Thiện tại thành phố Vị Thanh; Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ... Thực hiện đăng Video 09 Di tích: Chiến thắng Chương Thiện thành phố Vị Thanh, Chiến thắng Chương Thiện - Long Mỹ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Đền thờ Bác Hồ, Chiến thắng Cái Sình, Chiến thắng Tầm Vu, Ủy ban Liên hiệp Đình chiến nam Bộ; để truyền tải nội dung, hình ảnh các di tích trên kênh Youtube nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Tham gia 21 giải, đạt 83 huy chương các loại (21 HCV, 21 HCB, 41 HCĐ): Vô địch và vô địch trẻ Judo Đông Nam Á năm 2023 tại Malaysia, kết quả đạt 03 HCV; vô địch Vovinam Đông Nam Á năm 2023 tại Campuchia, kết quả đạt 01 HCB; vô địch Việt dã leo núi “Chinh phục đỉnh cao Bà Rá” lần thứ 28 năm 2023 tại Bình Phước; Đua thuyền Cup Canoeing toàn quốc năm 2022 tại Hải Phòng, kết quả đạt 02 HCV, 02 HCĐ; vô địch Kickboxing toàn quốc tại Gia Lai, kết quả 01 HCV, 01 HCB; vô địch các Câu lạc bộ Jujitsu quốc gia tại Bạc Liêu, kết quả đạt 02 HCV, 02 HCB, 04 HCĐ; vô địch Cử tạ Thanh Thiếu Niên quốc gia tại Lâm Đồng; vô địch các Câu lạc bộ Judo quốc gia tại Đồng Tháp, kết quả đạt 02 HCV, 01 HCB, 01 HCĐ; vô địch quốc gia Marathon và các cự ly dài “Giải Báo Tiền Phong” lần thứ 64 năm 2023 tại Lai Châu; Điền kinh Cúp tốc độ Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh; vô địch các Câu lạc bộ Vovinam quốc gia tại Bình Dương, kết quả 02 HCV, 02 HCB, 02 HCĐ; vô địch Bóng rổ U23 quốc gia năm 2023 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, kết quả đạt 01 HCV nội dung 3x3, 02 HCĐ nội dung 5x5 và 3x3; vô địch Cờ vua nhanh, chớp các nhóm tuổi Đồng bằng sông Cửu Long mở rộng năm 2023 tại Đồng Tháp, kết quả đạt 01 HCV, 03 HCB, 10 HCĐ…Trong đó, nổi bật là tham gia SEA Games 32: Có 02 huấn luyện viên và 07 vận động viên được triệu tập vào Đoàn thể thao Việt Nam tham dự SEA Games 32 tại Campuchia. Kết quả đạt: 04 HCB, 02 HCĐ (Cụ thể: 01 HCB đơn nữ môn Bi sắt, 01 HCB nội dung đồng đội môn Vovinam, 01 HCB và 01 HCĐ Ba môn phối hợp; 01 HCB môn Điền kinh, 01 HCĐ môn Kickboxing).
8.3. Lao động và an sinh xã hội
8.3.1. Tình hình đời sống dân cư và giải quyết việc làm
Tình hình đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp đóng trên địa bàn địa phương: Do nhiều năm qua Nhà nước không có chính sách nâng lương cho người lao động. Vì vậy, trong 6 tháng đầu năm 2023, thu nhập bình quân của người lao động làm công ăn lương so với cùng kỳ năm 2022 vẫn ổn định.
- Đối với lao động thuộc khối nhà nước: Ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,92 triệu đồng, thu nhập mỗi lao động trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý là 7,65 triệu đồng.
- Đối với người lao động thuộc khối doanh nghiệp: Ước thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,51 triệu đồng và trung ương quản lý là 6,53 triệu đồng.
- Đối với lao động ngoài nhà nước, hiện nay thu nhập vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2022. Ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 4,91 triệu đồng/người/tháng. Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 7,04 triệu đồng/người/tháng.
Nhìn chung, với mức thu nhập từ tiền lương, tiền thưởng của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động như thế chỉ có thể đáp ứng cơ bản được nhu cầu cho tiêu dùng trong thời điểm hiện nay.
Tình hình đời sống nông dân tại địa phương: Do đặc thù kinh tế Hậu Giang là tỉnh nông nghiệp, dân số phần đông sống ở vùng nông thôn và hoạt động nông nghiệp với nguồn thu nhập chính từ trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, khí hậu,... nói chung là các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, trong đó bao gồm cả yếu tố giá cả thị trường như giá phân bón, thuốc trừ sâu, giá thức ăn cho chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, giá giống, giá bán của các mặt hàng nông sản, thủy sản,... ở một khía cạnh nào đó có thể nói các yếu tố kể trên có tính chất quyết định đến chất lượng cuộc sống người dân nói chung và của dân cư nông thôn nói riêng Vì vậy, cần được đặc biệt quan tâm, góp phần cải thiện đời sống người dân.
Tình hình đời sống nông dân tại các xã, huyện được công nhận chuẩn Nông thôn mới: Tính đến nay, Toàn tỉnh có tổng số 37/51 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 07/37 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, có 03/08 đơn vị cấp huyện/thị/thành phố được công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới là thành phố Vị Thanh, thành phố Ngã Bảy và huyện Châu Thành A. Đây có thể là những đơn vị chủ lực, mang lại tiềm năng kinh tế rất lớn cho tỉnh, hình thành những khu nông nghiệp cây ăn trái chuyên canh, mang lại năng xuất và giá trị kinh tế cao như: Khóm, bưởi, cam, măng cục, sầu riêng,… Ngoài ra, các đơn vị này luôn được địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng khá tốt như: cầu, đường, trường trạm… giúp cho người dân lưu thông mua bán trao đổi hàng hóa được thuận lợi. Vì vậy, cuộc sống của người nông dân tại các xã, huyện được công nhận chuẩn Nông thôn mới tương đối khá hơn so với các đơn vị còn lại. 6 tháng đầu năm 2023 các xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao không có điều tra thu nhập, theo kết quả điều tra thu nhập năm 2022 của các xã đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, thu nhập bình quân của các xã đạt 56,96 triệu đồng/người/năm, tăng 3,24% so với thu nhập bình quân của các xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao năm 2021 (năm 2021: 55,17 triệu đồng/người/năm).
Công tác giải quyết việc làm luôn được các cấp chính quyền quan tâm và thực hiện khá tốt. Trong 6 tháng đầu năm, đã tạo và giải quyết việc làm mới cho 9.928 lao động, đạt 66,19% kế hoạch năm, tăng 0,82% so với cùng kỳ năm 2022.
8.3.2. An sinh xã hội
Công tác giảm nghèo: Thăm và tặng quà cho các hộ nghèo nhân dịp Tết nguyên đán Quý Mão 2023 với tổng số tiền là 51.309,05 triệu đồng, tăng 9.672,24 triệu đồng so với Tết nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 (41.636,81 triệu đồng). UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2023; phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2022 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2023. Theo đó, toàn tỉnh có tổng số hộ nghèo, cận nghèo là 17.162 hộ, tỷ lệ nghèo đa chiều là 8,53%. Trong đó, hộ nghèo là 9.736 hộ, chiếm tỷ lệ 4,84% và hộ cận nghèo là 7.426 hộ, chiếm tỷ lệ 3,69%.
Bảo trợ xã hội: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 228.292 lượt đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 124.430,78 triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 1.250 trường hợp với số tiền 9.000 triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 25 trường hợp với số tiền 445 triệu đồng. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội đã thẩm định, đề nghị Trung tâm Công tác xã hội Quyết định tiếp nhận, chăm sóc nuôi dưỡng 34 trường hợp người khuyết tật thần kinh, tâm thần có nơi nương tựa, có hành vi nguy hiểm, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tổ chức thăm, tặng quà cho 357 người khuyết tật nhân kỷ niệm Ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4/2023) với số tiền trên 122,8 triệu đồng. Nhìn chung, đời sống nhân dân được ổn định, việc chăm lo cho các gia đình nghèo, các đối tượng chính sách, xã hội… đều được quan tâm thực hiện tốt, đảm bảo hộ nghèo đủ điều kiện vui xuân và vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Thực hiện chính sách với người có công: Công tác thực hiện chính sách Người có công luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo sâu sát, uốn nắn kịp thời, nhất là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định mới về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, công tác rà soát thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công. Trong 6 tháng đầu năm 2023 đã tiếp nhận mới 1.265 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 1.199 hồ sơ. Trong đó: đạt 1.127 hồ sơ, không đạt 72 hồ sơ. Còn 76 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Tổ chức đưa đón 310 người có công với cách mạng đi tham quan tại thủ đô Hà Nội; đi điều dưỡng tập trung tại Trung tâm điều dưỡng Người có công Miền Trung, Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Kiên Giang. Nhân dịp Tết nguyên đán Quý Mão 2023 tỉnh cũng đã tổ chức thăm và tặng quà cho các đối tượng ưu đãi là người có công, thân nhân người có công với cách mạng với tổng số tiền là 29.830,80 triệu đồng, tăng 2.382,25 triệu đồng so với Tết Nhâm Dần năm 2022 (27.448,55 triệu đồng).
8.4. Y tế
Trong tháng, có 20 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 52 ca so với tháng trước, cộng dồn là 486 ca, tăng 431 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 17 ca mắc mới, giảm 67 ca so với tháng trước, cộng dồn là 145 ca (có điều chỉnh giảm), tăng 48 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, bệnh viêm gan do vi rút, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 888 trẻ, cộng dồn là 5.630 trẻ, đạt 53,4%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 943 trẻ, cộng dồn là 5.666 trẻ, đạt 50,6%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 1.686, cộng dồn là 5.032 trẻ, đạt 47,7%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 11 ca, cộng dồn là 37 ca (tăng 32 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.978 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 64 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.020 người. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 962 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 6/2023: Tổng số lần khám là 140.925 lượt, cộng dồn là 782.573 lượt (tuyến tỉnh: 90.694, tuyến huyện: 426.241, TYT: 239.837, PKĐKKV: 25.801); đạt 56,91% kế hoạch, tăng 41,24% so với cùng kỳ. Tổng số BN điều trị nội trú là 9.955 lượt, cộng dồn là 56.774 lượt (tuyến tỉnh: 20.701, tuyến huyện: 36.703), đạt 42,50% kế hoạch, tăng 50,80% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 5,99 ngày, giảm 1 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn, ngộ độc, chấn thương là 4.875 trường hợp, tăng 2.827 trường hợp so với cùng kỳ.
8.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 6/2023, toàn tỉnh xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 05 người, bị thương 01 người. So với tháng 5/2023, số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 02 người, số người bị thương tương đương. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ giảm 02 vụ, số người chết giảm 02 người, số người bị thương tăng 01 người. Nguyên nhân do không chú ý quan sát là 03 vụ; phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật là 01 vụ; không đi đúng phần đường là 01 vụ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/6/2023), toàn tỉnh xảy ra 36 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 36 người, bị thương 06 người. So cùng kỳ 2022, số vụ tăng 04 vụ, số người chết tăng 03 người, số người bị thương tăng người.
8.6. Tình hình thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 4.281 triệu đồng, tăng 3.139 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2022. Cụ thể:
- Sạt lở: Trong tháng xảy ra 27 vụ sạt lở với tổng chiều dài sạt lở là 648,50 m và diện tích mất đất 4.145,76 m2, ước thiệt hại 2.907 triệu đồng. So với tháng trước tăng 22 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 1.966 triệu đồng, diện tích mất đất ước tăng 3.240,76 m2. So với cùng kỳ năm 2022, tăng 19 vụ sạt lở, diện tích mất đất tăng 3.102,76 m2, ước thiệt hại tăng 2.656 triệu đồng (Tháng 6 năm 2022, xảy ra 8 vụ sạt lở, diện tích mất đất 1.043m2, ước thiệt hại 251 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 45 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 1.048,50 m; diện tích mất đất 6.124,76 m2; ước thiệt hại là 4.219 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ sạt lở tăng 34 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 3.562 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 2.530,76 m2.
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng xảy ra 3 vụ dông lốc làm sập 2 căn nhà và tốc mái, hư hại 02 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 62 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sữa chữa nhà và 5 triệu đồng. So với tháng trước, không xảy ra dông lốc. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 02 vụ giông lốc, làm sập 01 căn nhà và tốc mái, hư hại 03 căn nhà, ước thiệt hại 42 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, xảy ra 3 vụ dông lốc làm sập 2 căn nhà và tốc mái, hư hại 02 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 62 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sữa chữa nhà và 5 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 04 vụ giông lốc, làm sập 7 căn nhà, tốc mái hư hại 29 căn nhà, ước thiệt hại 485 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh phát hiện 03 vụ vi phạm môi trường về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm. Xử lý 02 vụ với số tiền xử phạt là 10 triệu đồng, so với tháng trước, số vụ vi phạm bằng nhau, xử lý giảm 03 vụ và số tiền xử phạt giảm 88,25 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 05 vụ, xử lý giảm 02 vụ, số tiền xử phạt giảm 6 triệu đồng, (tháng 6 năm 2022, phát hiện vi phạm môi trường 08 vụ, xử lý 04 vụ, số tiền xử phạt 16 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 25 vụ, xử lý 23 vụ với số tiền xử phạt là 475,75 triệu đồng; so với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 09 vụ, xử lý giảm 04 vụ và số tiền xử phạt giảm 45,75 triệu đồng (cộng dồn từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2022, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 34 vụ, xử lý 27 vụ, xử phạt 521,50 triệu đồng).
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 01 vụ cháy, nổ, làm 1 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 525 triệu đồng./.
[1] Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng so với tháng trước là do triển khai nhanh việc lập hồ sơ, thủ tục các dự án mới đã bố trí vốn bổ sung từ đầu năm 2023; chủ đầu tư đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công các công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[2] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh; dịch bệnh Covid-19 đã hoàn toàn được kiểm soát nên các dự án, công trình thi công không bị gián đoạn. Vốn đầu tư năm 2023 được phân bổ tăng 14,33% (23.193.497/20.286.616 triệu đồng) so với năm 2022. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian; Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[3] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[4] Hoạt động thương mại của các nhóm hàng bán lẻ được xem là có sự biến động nhiều so với các lĩnh vực khác do quy mô về số lượng của các cơ sở cá thể và doanh nghiệp lớn. Giá trị doanh thu của các cơ sở này trong 6 tháng đầu năm cũng không được ổn định, nhiều cơ sở có mức tăng cao đột biến do có nhiều đơn hàng, cũng có nhiều cơ sở có doanh thu giảm mạnh do ảnh hưởng các yếu tố giá cả thị trường, yếu tố cung cầu hàng hóa đang kinh doanh. Nhưng nhìn chung tổng thể, tổng giá trị doanh thu bán lẻ trong 6 tháng đầu năm vẫn có mức tăng trưởng tương đối cao, hầu hết các nhóm hàng giảm so với cùng kỳ là những nhóm hàng có giá trị doanh thu thấp và chiếm tỷ trọng không cao trong tổng mức bán lẻ nên không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang