Tháng 8/2023, trong tỉnh không có nhiều sự kiện tập trung đông người được tổ chức như tháng trước, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh vẫn phát triển ổn định, đa số các chỉ tiêu kinh tế đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,93%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,30%, …. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập chung vào thu hoạch vụ lúa Hè thu năm 2023 và sản xuất vụ lúa Thu đông năm 2023. Đẩy mạnh mở rộng diện tích sản xuất rau màu, cây ăn quả, đặc biệt là các cây trồng có lợi thế cạnh tranh cao, sản xuất theo chuỗi giá trị, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp an toàn để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu năm 2023: Đã xuống giống dứt điểm được 75.207,1 ha, đạt 100,95% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), giảm 1,52% (bằng 1.161,7 ha) so với cùng kỳ. Hiện đã thu hoạch được 69.749,3 ha, tăng 10,56% (bằng 6.663,9 ha) so với cùng kỳ. Diện tích còn lại hiện đang giai đoạn làm đồng đến trổ chín, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu tập trung các giống: OM18 chiếm 68,9%, OM5451 chiếm 23%, Đài Thơm 8 chiếm 4,6%, còn lại các giống khác chiếm 3,5%…
Lúa Thu đông năm 2023: Đã xuống giống được 25.000 ha, đạt 102,04% kế hoạch tỉnh (24.500 ha), giảm 23,52%[1] (bằng 7.689 ha) so với cùng kỳ. Hiện lúa đang ở giai đoạn mạ đến làm đòng sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18, OM5451, ...
Mía niên vụ 2022-2023: Đã xuống giống được 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 34 ha nhiễm sinh vật gây hại (giảm 10 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân, ... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng, phân bố ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Hiện đã thu hoạch được 912 ha, giảm 23,94% (bằng 287 ha) so với cùng kỳ. Chủ yếu thu hoạch để bán mía chục.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng được 2.079 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 1,27% (bằng 26,1 ha); năng suất đạt 60,15 tạ/ha, giảm 5,72% (bằng 3,65 tạ/ha); sản lượng được 11.300 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 0,91% (bằng 104,05 tấn).
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng được 18.290,24 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,7% (bằng 1.915,25 ha); Ước sản lượng được 213.218,84 tấn, tăng 16,93% (bằng 30.865 tấn). Thực hiện theo Kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất rau màu của ngành chức năng, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch ước tăng mạnh so với cùng kỳ.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.089,63 ha, tăng 0,99% (bằng 30,26 ha) so với cùng kỳ, sản lượng 8 tháng ước được 22.294,38 tấn, đạt 48,57% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 5,59% (bằng 1.179,88 tấn) so với cùng kỳ, tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.651,67 ha, tăng 2,64% (bằng 42,49 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 8 tháng ước được 7.876,49 tấn, đạt 43,76% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,47% (bằng 408,38 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.689,36 ha, tăng 3,28% (bằng 307,71 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 8 tháng được 76.120,91 tấn, đạt 79,29% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 35,04% (bằng 19.750,67 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.830,7 ha, tăng 0,29% (bằng 8,22 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 8 tháng ước được 14.618,52 tấn, đạt 31,24% so kế hoạch năm (46.800 tấn) và tăng 6,49% (bằng 891,2 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất tăng.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 722,5 ha, tăng 2,03% (bằng 14,39 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 8 tháng được 4.345,92 tấn, đạt 46,83% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,27% (bằng 294,57 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Ước tính tháng 8/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.260 con, giảm 12,07% [2] (bằng 173 con) so với cùng kỳ; Đàn bò ước được 4.006 con, tăng 8,98% (bằng 330 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.124 con, tăng 1,10% (bằng 1.578 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 102.637 con, tăng 1,43% (bằng 1.448 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.293,71 ngàn con, tăng 1,98% (bằng 83,56 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 1.622,74 ngàn con, tăng 5,66% (bằng 86,92 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt… Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh.
1.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Ước tính 8 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung được 129,98 ha, tăng 0,26% so với cùng kỳ. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước được 1.318,9 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 1,62% (bằng 20,96 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 7.674 m3, tăng 2,31% (bằng 173 m3), sản lượng củi khai thác khoảng 57.793 ste, tăng 0,25% (bằng 145 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Ước tính tháng 8/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 2.041,97 ha, tăng 275,96% (bằng 1.498,83 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 9.954,08 ha, đạt 89,68% so kế hoạch năm và kế hoạch mở rộng diện tích nuôi thủy sản trên ruộng lúa, tăng 20,53%[3] (bằng 1.695,8 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 9.762,51 ha[4], tăng 20,67% (bằng 1.672,4 ha), chủ yếu là tăng diện tích nuôi cá trên ruộng lúa (Vụ lúa Thu đông); diện tích nuôi tôm được 97,2 ha, tăng 0,73% (bằng 0,7 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 94,37 ha, tăng 31,67% (bằng 22,7 ha); Thể tích nuôi lươn được 9.653 m3, tăng 14,3% (bằng 1.208 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 8/2023, tổng sản lượng thủy sản được 10.033,89 tấn, tăng 8,2% (bằng 760,64 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 8 tháng năm 2023 ước được 45.238,43 tấn, đạt 52,6% so kế hoạch năm (86.000 tấn) và tăng 5,34%[5] (bằng 2.293,68 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 8 tháng ước được 1.929,94 tấn, giảm 1,27% (bằng 24,85 tấn) so cùng kỳ, do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 8 tháng ước được 43.308,49 tấn, đạt 51,99% so kế hoạch năm (83.300 tấn) và tăng 5,66% (bằng 2.318,53 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 2.408,19 tấn, tăng 3,89% (bằng 90,11 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 807,04 tấn, tăng 58,24% (bằng 297,02 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại hai sản phẩm này đang được mở rộng diện tích nuôi vì đem lại thu nhập tương đối ổn định cho người dân.
2. Sản xuất công nghiệp
Trong những tháng gần đây, lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đã có nhiều dự án mới đi vào hoạt động, với nhiều chính sách hỗ trợ kêu gọi đầu tư và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội.
Ước thực hiện tháng 8/2023, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.370,84 tỷ đồng, tăng 3,77% so với tháng trước và tăng 13,10% so với cùng kỳ năm trước; Tính theo giá hiện hành, được 5.865,01 tỷ đồng, tăng 3,85% so với tháng trước và tăng 13,86% so với cùng kỳ năm trước[6].
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 25.010,96 tỷ đồng, tăng 10,93% so với cùng kỳ năm trước và đạt 64,17% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 43.010,32 tỷ đồng, tăng 20,93% so với cùng kỳ năm trước và đạt 66,46% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 9.510,89 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22,10% trong toàn ngành và tăng 175,97% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 233 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 26.072,29 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,62% trong toàn ngành và tăng 7,13% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 7.427,13 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,27% trong toàn ngành và giảm 4,58% so với cùng kỳ.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 8/2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 3,47% so với tháng trước và tăng 13,93% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 3,65% so với tháng trước và tăng 10,90% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước như:
+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 16,41% so với tháng trước và tăng 7,69% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 37,68% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 26,30% so với tháng trước và tăng 12,28% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô giảm 0,06% so với tháng trước và tăng 16,02% so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền giảm 7,16% so với tháng trước và tăng 78,02% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
+ Sản xuất đồ uống, tăng 4,70% so với tháng trước và tăng 46,79% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do các công ty sản xuất nước uống có hương vị hoa, quả đóng chai trên địa bàn tỉnh tăng sản lượng sản xuất, để phục vụ nhu cầu thị trường trong mùa du lịch như hiện nay. Vì vậy, đã làm tăng cao chỉ số sản xuất ngành này so với cùng kỳ.
+ Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, tăng 6,75% so với tháng trước và tăng 10,26% so với cùng kỳ năm trước, giá trị sản xuất của ngành này chủ yếu do 4 doanh nghiệp sản xuất giày da trên địa bàn tỉnh, đóng góp trên 98% (trên 470 tỷ/tháng), trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được những hợp đồng sản xuất giày có chất lượng cao tại những thị trường truyền thống như: Canada, Đức, Hoa Kỳ, Mêxico,... đã làm chỉ số ngành này tăng so với cùng kỳ.
+ Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy, tăng 1,45% so với tháng trước và tăng 13,55% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Giấy LEE & Man Việt Nam, nhận được các hợp đồng lớn từ những thị trường truyền thống như: Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Hồng Kông,… nên doanh nghiệp dự tính sản xuất được 40.460 tấn, tăng 1,54% so với tháng trước và tăng 16,01% so với cùng kỳ.
+ Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất, tăng 4,52% so với tháng trước và tăng 13,25% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Hóa Nông Lúa Vàng Hậu Giang, tăng sản lượng sản xuất thuốc bảo vệ thực vật các loại, để phục vụ nông dân chăm sóc vụ lúa Thu đông trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng và các tỉnh lân cận nói chung.
+ Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, tăng 2,29% so với tháng trước và tăng 15,63% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do các công ty và cơ sở sản xuất cá thể sản xuất cửa sắt, nhôm các loại, tăng sản lượng sản xuất, để các nhà thầu hoàn thiện các công trình xây dựng nhà các loại, nhất là các công trình sửa chữa trường học để kịp thời bàn giao trước ngày khai giảng năm học mới.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 17,85% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 05 doanh nghiệp đang hoạt động ổn định trong ngành này. Trong đó, Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, dự tính sản lượng sản xuất tháng 8/2023 được 930 ngàn M3, tăng 1,20% so với tháng trước và tăng 22,21% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Dự tính 8 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 12,22% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 6,55% của 8 tháng năm 2020 so với cùng kỳ và cao hơn mức tăng 5,26% của 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ nhưng thấp hơn mức tăng 14,92% của 8 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Trong đó, Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng trên 76,65% trong toàn ngành công nghiệp, nhưng tăng 7,42% thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành[7] (thấp hơn mức tăng 12,25% của 8 tháng năm 2022 so với cùng kỳ); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 183,77% (do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức hoạt động ổn định, nên đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ); ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 14,04%.
Nhìn chung, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại sau đợt ảnh hưởng kinh tế thế giới suy thoái vào đầu năm. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đặc biệt, tỉnh đang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản có lợi thế cạnh tranh và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như: xay xát, chế biến thủy sản đông lạnh, sản xuất trái cây đóng hộp, chế biến trà mãng cầu, chế biến cá thát lát,… các sản phẩm này có khả năng xuất khẩu và giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội, mang đến thu nhập cho người dân. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 8 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng nước mắm sản xuất được 69,69 triệu lít, tăng 1.176,95%; sản lượng mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 10.909 tấn, tăng 23,73%; sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 246.022 tấn, tăng 17,83%; nước uống có hương vị hoa quả được 165,16 triệu lít, tăng 11,55%; sản lượng điện sản xuất được 3.998 triệu kwh, tăng 219,71%. Ở chiều ngược lại, do các doanh nghiệp bị ảnh hưởng kinh tế thế giới suy thoái vào những tháng đầu năm, nên sản lượng một số sản phẩm tăng trưởng âm trong 8 tháng năm 2023 như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 18.195 tấn, giảm 31,05%; sản lượng sản xuất giày dép các loại được 10.548 ngàn đôi, giảm 8,84%.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng, có 76 hồ sơ đăng ký mới, bao gồm 51 Doanh nghiệp tư nhân và Công ty, 25 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), với tổng số vốn đăng ký là 188,80 tỷ đồng; có 07 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 04 doanh nghiệp và công ty), tổng vốn là 19,08 tỷ đồng; có 16 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 01 công ty), tổng vốn là 5 tỷ đồng).
Lũy kế từ đầu năm đến nay, có 554 doanh nghiệp đăng ký thành lập các loại hình mới (trong đó có 332 Doanh nghiệp và Công ty, còn lại 222 đơn vị trực thuộc), tổng vốn là 1.774,39 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 12,24% về số lượng doanh nghiệp và về số vốn doanh nghiệp giảm 56%); có 152 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 1.005,48 tỷ đồng; có 83 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 179,15 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 21,69% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 58,40%).
4. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 14/8/2023, kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2023 là 23.193,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.733 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 15.310 tỷ đồng.
Đến nay, trong khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp tập trung (CCNTT) có 75 doanh nghiệp thực hiện 77 dự án đầu tư (trong đó có 13 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư trong nước là 78.227 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư nước ngoài là 3.850,6 triệu USD, trong đó có 54 dự án đầu tư đang hoạt động và 23 dự án đang giải phóng mặt bằng, xây dựng.
Ước tính tháng 8/2023, vốn đầu tư thực hiện được 1.813,79 tỷ đồng, tăng 6,43% so với tháng trước[8] và tăng 9,21% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 555,46 tỷ đồng, bằng 105,52% so với tháng trước và bằng 166,63% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 168,23 tỷ đồng, bằng 100,44% so với tháng trước và bằng 279,22% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.090,10 tỷ đồng, bằng 107,90% so với tháng trước và bằng 86,02% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 14.767,94 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 10,56%9 và đạt 63,67% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 3.286,36 tỷ đồng, bằng 175,22% so với cùng kỳ năm trước và đạt 57,32% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.459,02 tỷ đồng, bằng 236,39% so với cùng kỳ năm trước và đạt 67,85% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 10.022,56 tỷ đồng, bằng 92,25% so với cùng kỳ năm trước và đạt 65,46% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 8/2023 được 899,12 tỷ đồng, luỹ kế 10.391,79 tỷ đồng, đạt 97,11% dự toán Trung ương, đạt 71,76% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 505,50 tỷ đồng, luỹ kế được 3.734,37 tỷ đồng, đạt 60,54% dự toán Trung ương, đạt 57,29% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 450 tỷ đồng, luỹ kế được 3.331,31 tỷ đồng, đạt 60,57% dự toán Trung ương và đạt 56,95% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 403,06 tỷ đồng, đạt 60,34% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 2.972,91 tỷ đồng, đạt 65,58% dự toán Trung ương, đạt 65,52% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 8/2023 được 927,00 tỷ đồng, luỹ kế được 7.431,08 tỷ đồng, đạt 77,83% dự toán Trung ương giao, đạt 55,81% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi xây dựng cơ bản: 595,41 tỷ đồng, luỹ kế được 4.763,27 tỷ đồng, đạt 100,19% dự toán Trung ương giao, đạt 65,01% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 331,59 tỷ đồng, luỹ kế được 2.652,69 tỷ đồng, đạt 56,94% dự toán Trung ương giao, đạt 45,77% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/7/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 21.995 tỷ đồng, tăng trưởng 10,26% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 59,13% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 11.527 tỷ đồng (chiếm 52,41%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.468 tỷ đồng (chiếm 47,59%). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 3,0-4,75%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 5,0-6,8%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 6,0-7,1%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 8/2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 22.074 tỷ đồng, tăng trưởng 10,66% so với cuối năm 2022.
Đến ngày 31/7/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 37.199 tỷ đồng, tăng trưởng 6,44% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.529 tỷ đồng (chiếm 52,50%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 17.670 tỷ đồng (chiếm 47,50). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 7,0 - 12,5%/năm; trung, dài hạn từ 9 - 15,1%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 8/2023, dư nợ đạt 37.358 tỷ đồng, tăng trưởng 6,90% so với cuối năm 2022.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 7/2023 là 904 tỷ đồng, chiếm 2,43%/tổng dư nợ; nợ xấu là 432 tỷ đồng, chiếm 1,16%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 472 tỷ đồng, chiếm 52,21%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 8/2023, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.
Dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương tính đến cuối tháng 7/2023, đạt được kết quả sau:
- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 2.749 tỷ đồng, tăng trưởng 21,15% so với cuối năm 2022.
- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 3.750 tỷ đồng, giảm 0,85% so với cuối năm 2022.
- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 9,70 tỷ đồng, giảm 26,57% so với cuối năm 2022.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 20,06 tỷ đồng, giảm 21,70% so với cuối năm 2022.
- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 196 tỷ đồng, tăng trưởng 22,50% so với cuối năm 2022.
- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 3.725 tỷ đồng, tăng trưởng 7,81% với cuối năm 2022.
- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 22.579 tỷ đồng, tăng trưởng 5,01% so với cuối năm 2022.
- Kết quả thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP của Chính phủ trên địa bàn tỉnh có dư nợ cho vay được hỗ trợ lãi suất 83,05 tỷ đồng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng là 944 triệu đồng.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Trong tháng 8, hoạt động kinh doanh bán lẻ các loại hàng hóa diễn ra bình thường, vẫn có mức tăng trưởng ổn định, các nhóm ngành ít có sự biến động trong khi các loại hình kinh doanh dịch vụ có sự sụt giảm đáng kể, trong đó dịch vụ tiêu dùng giảm 9,91%, lưu trú và ăn uống giảm 5,74% so với tháng trước. Nguyên nhân do tình hình thời tiết diễn biến không thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, các sự kiện tập trung đông người không được tổ chức với quy mô lớn và sôi động như tháng trước. Vì vậy, ước tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ tháng 8/2023 thực hiện được 4.614,66 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 1,73% và so với cùng kỳ năm trước tăng 24,30%. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.439,53 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,60% và so với cùng kỳ bằng 127%. Các nhóm hàng bán lẻ trong tháng chứng kiến sự biến động tăng giảm khác nhau giữa các nhóm hàng. Trong đó, các nhóm hàng có mức tăng cao như: Ô tô (dưới 9 chổ) tăng 17,88% do các hãng xe đưa ra các chương trình khuyến mãi giảm giá trực tiếp, hỗ trợ lệ phí trước bạ và các quà tặng hấp dẫn khi mua xe đã kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng, các hợp đồng mua bán được ký kết nhiều hơn; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 5,13%; vàng bạc đá quý tăng 4,16%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 4,24%. Về các nhóm hàng ước tháng 8/2023 có mức giảm nhẹ bao gồm: Hàng may mặc; phương tiện đi lại các loại (trừ ô tô); lương thực, thực phẩm mặc dù chiếm tỷ trọng lớn nhưng có mức giảm chưa đến 2%. Vì vậy, doanh thu bán lẻ so với tháng trước vẫn tăng.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống thực hiện được 565,89 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 5,74% và so với cùng kỳ năm trước tăng 27,88%10. Các hoạt động sự kiện văn hóa, thể thao, hội chợ tiêu dùng cùng các hoạt động tổ chức vì cộng đồng được ít tổ chức hơn so với tháng trước nên số lượng người tập trung không đông đúc, tình hình kinh doanh của các cơ sở ăn uống, lưu trú phần nào bị ảnh hưởng kém sôi động hơn.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) thực hiện được 609,24 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 9,91% và so với cùng kỳ năm trước tăng 8,48%. Hoạt động kinh doanh của các ngành dịch vụ trong tháng được dự báo tiếp tục tăng trưởng ổn định không có nhiều biến động lớn. Riêng doanh thu dịch vụ kinh doanh xổ số kiến thiết (ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu dịch vụ) được dự ước sẽ có giá trị giảm nhiều so với tháng trước giảm khoảng 19,55% do hoạt động mở thưởng định kỳ theo quy định có số kỳ giảm.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 36.433,99 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 117,47%. Đóng góp vào mức tăng trưởng cao của toàn ngành thương mại và dịch vụ chủ yếu đến từ sự tăng trưởng cao của một số nhóm hàng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ kinh doanh ăn uống của các cơ sở nhà hàng, quán ăn trên địa bàn với mức tăng lần lượt là 17,48% và 23,68%.
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 27.284,12 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 117,48%. Nhìn chung, qua 8 tháng năm 2023 hầu hết các nhóm hàng chủ lực đều có mức tăng tương đối cao so với cùng kỳ, chỉ có một số ít nhóm hàng vẫn còn giá trị giảm do trong những tháng đầu năm thị trường có nhiều biến động không thuận lợi nên hoạt động kinh doanh các lĩnh vực nhóm ngành này bị ảnh hưởng dẫn đến sụt giảm giá trị.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.305,56 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,44%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 160,24 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 47,73%; Ngành ăn uống, ước tính được 4.145,32 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 23,68%.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 4.844,31 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,85%.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 8/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 90.566 nghìn USD so với tháng trước bằng 101,05% và so với cùng kỳ năm trước bằng 88,91%.Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 61.757 nghìn USD, so với tháng trước bằng 100,50% và so với cùng kỳ năm trước bằng 83,24%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 28.809 nghìn USD, so với tháng trước bằng 102,24% và so với cùng kỳ năm trước bằng 104,11%.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 786.438 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 108,11%, so với kế hoạch năm đạt 68,97%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 496.889 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,09%, so với kế hoạch năm đạt 67,42%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do ước giá trị xuất khẩu nhóm hàng hóa khác tăng 25,94% (chiếm 21,70% tổng giá trị xuất khẩu), nhóm hàng rau quả tăng 8,16% (chiếm tỷ trọng 3,19% tổng giá trị nhập khẩu).
- Nhập khẩu ước thực hiện được 261.627 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,45%, so với kế hoạch năm đạt 72,62%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do ước giá trị nhập khẩu của các nhóm hàng tăng như: Hóa chất tăng 19,50% (chiếm 16,17% tổng giá trị nhập khẩu), thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 65,45% (chiếm 5,58% tổng giá trị nhập khẩu).
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 210 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 28,26%, so với kế hoạch năm đạt 23,05%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 27.712 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 100,06%, so với kế hoạch năm đạt 65,78%.
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 8 tháng năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 114.286 nghìn USD; đồng thời Hoa Kỳ cũng là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 59.152 nghìn USD.
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung 8 tháng năm 2023, ước tính xuất siêu 235.262 nghìn USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 212.013 nghìn USD).
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động kinh doanh vận tải và các loại hình dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải nhìn chung ổn định tiếp tục tăng trưởng nhưng ở mức không cao. Vận chuyển hành khách tiếp tục là hoạt động kinh doanh đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng chung khi có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước 10,62%. Ước tính tháng 8/2023, tổng doanh thu vận tải kho bãi thực hiện được 141,42 tỷ đồng so với tháng trước bằng 102,08% và so với cùng kỳ năm trước bằng 99,69%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 77,05 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,56% và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,21%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,46 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,66% và so với cùng kỳ năm trước bằng 104,05%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 33,91 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 107,14%. Doanh thu dịch vụ kho bãi vận tải có sự thay đổi giảm về qui mô so với các tháng trước do doanh thu dịch vụ logistic có phần bị chững lại và giảm nhiều khoảng 20% doanh thu.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 1.083,38 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 107,77%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 575,74 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,78%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 243,88 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 114,56%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 263,76 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 98,44%. Nguyên nhân giảm so với cùng kỳ là do những tháng đầu năm doanh thu hoạt động logistic chủ yếu là các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trên địa bàn huyện Châu Thành A và Châu Thành có giá trị giảm nhẹ so với cùng kỳ. Hiện nay, giá trị doanh thu của các doanh nghiệp đang dần tăng trở lại và có tốc độ tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ trong những tháng gần đây (bắt đầu từ tháng 6), do đó trong những tháng còn lại của năm doanh thu các dịch vụ vận tải được dự báo sẽ tăng giá trị và có tốc độ tăng trưởng dương cho cả năm 2023.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 8/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 484,44 nghìn tấn hàng hóa các loại (81.594,94 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,68% (103,54%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,01% (125,69%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 109,56 nghìn tấn (17.068,80 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,33% (102,31%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,54% (103,94%).
- Đường sông thực hiện được 374,88 nghìn tấn (64.526,14 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,09% (103,87%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,75% (133,05%).
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 3.889,37 nghìn tấn hàng hóa các loại (629.899,29 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 126,66% (130,40%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 917,37 nghìn tấn (146.602,65 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 149,46% (145,04%).
- Đường sông thực hiện được 2.972 nghìn tấn (483.296,64 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 120,97% (126,52%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 8/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.370,16 nghìn lượt hành khách (50.581,60 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 100,57% (101,50%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,94% (113,78%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 209,11 nghìn lượt hành khách (43.874,10 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,82% (101,55%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,49% (118,00%).
- Đường sông vận chuyển được 2.161,05 nghìn lượt hành khách (6.707,50 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 100,45% (101,17%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 97,80% (92,23%).
Ước thực hiện 8 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 19.536,76 nghìn lượt hành khách (388.452,56 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 105,26% (110,46%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 1.594 nghìn lượt hành khách (334.152,42 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 111,11% (111,91%).
- Đường sông vận chuyển được 17.942,76 nghìn lượt hành khách (54.300,14 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 104,77% (102,32%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Toàn ngành có 316 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường; tiểu học có 148 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh.
Giáo dục thường xuyên: Có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Trong tháng, tình hình hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Thành lập Ban Tổ chức và Báo cáo viên lớp tập huấn Hướng dẫn nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Giới thiệu và phối hợp tập huấn bộ sách Bài học STEM cấp tiểu học.
- Triển khai thực hiện Quyết định phê duyệt Tài liệu cho trẻ mẫu giáo làm quen với tiếng Anh sử dụng trong cơ sở giáo dục mầm non.
- Tổ chức các lớp tập huấn giải toán trên máy tính cầm tay cho giáo viên các trường THCS và THPT.
- Tổ chức chấm phúc khảo thi tốt nghiệp THPT năm 2023. Kết quả đạt 6.528/6.609, tỷ lệ 98,77% (tăng 0,19% so với trước phúc khảo).
- Triển khai Cuộc thi trực tuyến "Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" năm 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7.2. Văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm 78 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2023) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2023), … kết quả: In và lắp mới 2.560m2 pano, 3.770 cờ các loại, 192 băng rol. Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với 66 buổi, phục vụ 40.440 lượt người xem, tổ chức 51 lượt phóng thanh cổ động. Phòng Phát hành phim và chiếu bóng thực hiện ghi hình các sự kiện của ngành, tổ chức chiếu phim lưu động 11 buổi, phục vụ 3.410 lượt người xem.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm 1.500 quyển sách phục vụ giải Marathon quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” tỉnh Hậu Giang lần thứ IV năm 2023 từ ngày 15/7 - 16/7/2023 tại Quảng trường Hòa Bình với các chuyên đề: Sách viết về Hậu Giang; Sách viết về Biển đảo Việt Nam; Sách quý, sách hay; Sách mới các lĩnh vực. Trưng bày 205 quyển sách tại Thư viện tỉnh: Sách chuyên đề về “Các anh hùng liệt sĩ” nhân Ngày Thương binh liệt sĩ 27/7; sách kỷ niệm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7; sách mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; sách chuyên đề về cải cách hành chính và Tủ sách Bác Hồ. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện, đảm bảo nguyên tắc 2K+ để phòng, chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện, trong tháng 8/2023 phục vụ 14.914 lượt người truy cập tra cứu (nâng tổng số lên 108.710 lượt) và đọc sách với 29.828 lượt sách (nâng tổng số lên 217.420 lượt).
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức sưu tầm và viết lý lịch 30 hiện vật. Tổ chức triển lãm 04 cuộc phục vụ: Lễ khen thưởng tuyên dương khen thưởng cấp Nhà nước, họp mặt Người có công với cách mạng kỷ niệm 76 năm ngày thương binh - liệt sĩ tại Trung tâm Hội nghị tỉnh; Giải Marathon quốc tế “Vietcombank Mekong Detal” Hậu Giang lần thứ IV năm 2023;… với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng An ninh,… Thực hiện đăng Video 05 Di tích: Căn cứ Thị xã ủy Vị Thanh; Chùa Phổ Minh, phường IV, thành phố Vị Thanh; Trận chiến pháo binh Vịnh Chèo 1974; Địa điểm thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Chiến thắng Chày Đạp để truyền tải nội dung, hình ảnh các di tích trên kênh Youtube nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 25.265 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Tổ chức và tham gia 02 môn Kickboxing và Boxing Đại hội Thể thao đồng bằng sông Cửu Long lần thứ IX - Hậu Giang năm 2023, kết quả đạt 13 Huy chương Vàng (HCV), 08 Huy chương Bạc (HCB), 31 Huy chương Đồng (HCĐ) (Môn Kickboxing: 06 HCV, 05 HCB, 15 HCĐ; Môn Boxing: 07 HCV, 03 HCB, 16 HCĐ). Tham gia 08 giải toàn quốc đạt 31 huy chương các loại: vô địch Kickboxing trẻ toàn quốc tại Hải Phòng (kết quả đạt 01 HCV, 01 HCĐ); vô địch trẻ Jujitsu quốc gia năm 2023 tại Thanh Hóa (kết quả đạt 03 HCB, 01 HCĐ); vô địch Judo trẻ toàn quốc năm 2023 tại Đồng Nai (kết quả đạt 02 HCV, 04 HCB, 05 HCĐ); vòng chung kết Giải Bóng chuyền hạng A quốc gia năm 2023 tại Đắk Lắk (Hạng 5/12); vô địch Cờ vua trẻ quốc gia năm 2023 tại Cần Thơ; vô địch Bắn cung trẻ quốc gia năm 2023 tại Hà Nội (kết quả đạt 01 HCB, 05 HCĐ); vô địch Triathlon quốc gia năm 2023 tại thành phố Hồ Chí Minh (kết quả đạt 01 HCV, 01 HCB, 04 HCĐ); vô địch đua thuyền trẻ quốc gia tại Hà Nội (kết quả đạt 01 HCB, 01 HCĐ).
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.124(12.423)/15.000 lao động, đạt 82,82% kế hoạch năm. Trong đó, đã hỗ trợ đưa 33(483)/547 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài theo hợp đồng, đạt 88,29% kế hoạch năm (trong đó có 214 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc). Tổ chức cấp phát chi phí ban đầu không hoàn lại cho người lao động có con, em đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài (đợt 6) cho 63 (253) người với số tiền 510 (2.115,5) triệu đồng.
Tổ chức 01 (18) phiên giao dịch việc làm cho người lao động có nhu cầu tìm việc, qua đó đã tư vấn việc làm cho 137 (1.986) người lao động; 06 (34) phiên giao dịch việc làm cho người lao động đang hưởng trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp với 528 (2.395) người lao động tham gia.
Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp: Trong tháng, tuyển sinh học nghề được 49 (6.303)/6.500 người, đạt 97% kế hoạch năm. Trong đó: trình độ cao đẳng 20 (60) người; trung cấp 29 (148), sơ cấp và dưới 03 tháng là 0 (6.095) người.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 227 (1.725) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 221 (1.708) hồ sơ. Trong đó, đạt 209 (1.609) hồ sơ, không đạt 12 (99) hồ sơ. Còn 27 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức tham mưu UBND tỉnh tổ chức các hoạt động kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2023). Kết quả, toàn tỉnh đã tổ chức thăm, tặng 24.634 phần quà cho người có công, thân nhân người có công với tổng kinh phí 13.687 triệu đồng.
Lĩnh vực Bảo trợ xã hội - Giảm nghèo: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 39.090 (306.204 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 21.951,72 (168.168,8) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 218 (1.693) trường hợp với số tiền 1.569,6 (12.189,6) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 14 (47) trường hợp với số tiền 267 (881) triệu đồng. Tổ chức thăm, tặng quà cho 300 nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam trên địa bàn tỉnh với kinh phí 300 triệu đồng nhân kỷ niệm Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8/2023).
Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 65 (396) cuộc với 2.946 (15.704) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 39 (287) cuộc với 235 (1.828) phút tuyên truyền. Về công tác quản lý đối tượng: Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 993 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 139 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 28 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tăng 11 ca so với tháng trước, cộng dồn là 531 ca, tăng 175 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 175 ca mắc mới, tăng 59 ca so với tháng trước, cộng dồn là 436 ca, tăng 50 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút trong tháng không có ca mắc mới, cộng dồn là 05 ca, tăng 05 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 853 trẻ, cộng dồn là 7.215 trẻ, đạt 68,5%; tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 855 trẻ, cộng dồn là 7.371 trẻ, đạt 65,9%; tiêm VNNB (3) là 900 trẻ, cộng dồn 6.128 trẻ, đạt 54,8%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 846 trẻ, cộng dồn là 6.720 trẻ, đạt 63,7%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 11 ca, cộng dồn là 54 ca (tăng 37 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.995 ca (số đang quản lý 1.046 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 63 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.023 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 621 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 7/2023: Tổng số lần khám là 163.915 lượt, cộng dồn là 1.051.552 lượt, đạt 79,39% kế hoạch, tăng 32,51% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 9.434 lượt, cộng dồn là 75.156 lượt, đạt 56,26% kế hoạch, tăng 39,34% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,02 ngày, giảm 0,61 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn, ngộ độc, chấn thương là 6.401 trường hợp, tăng 3.257 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 8/2023, toàn tỉnh xảy ra 19 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 07 người, bị thương 19 người. So với tháng 7/2023, số vụ giảm 08 vụ, số người chết giảm 08 người, số người bị thương tăng 01 người. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 13 vụ, số người chết tăng 02 người, số người bị thương tăng 18 người. Nguyên Nhân do không quan sát là 02 vụ; chuyển hướng là 01 vụ; không chấp hành biển báo hiệu đường bộ là 01 vụ; người đi bộ là 01 vụ; lỗi khác là 04 vụ; đang điều tra, làm rõ 10 vụ.
Tính chung 8 tháng năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/8/2023), toàn tỉnh xảy ra 108 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 79 người, bị thương 51 người. So cùng kỳ 2022, số vụ tăng 23 vụ, số người chết giảm 05 người, số người bị thương tăng 38 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 7.283,78 triệu đồng, tăng 1.335,78 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2022. Cụ thể như sau:
- Tình hình sạt lở: Trong tháng, xảy ra 3 vụ sạt lở với tổng chiều dài sạt lở là 77m và diện tích mất đất 385m2, ước thiệt hại khoảng 152 triệu đồng. So với tháng trước giảm 12 vụ sạt lở, số tiền thiệt hại ước giảm 1.083 triệu đồng, diện tích mất đất ước giảm 2.467m2. So với cùng kỳ năm 2022, không xảy ra sạt lở. Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 63 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 1.550,50m; diện tích mất đất 9.361,76m2; ước thiệt hại là 5.606 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ sạt lở tăng 46 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 3.544 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 6.527,76m2.
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng xảy ra 26 vụ dông lốc làm sập 14 căn nhà và tốc mái, hư hại 36 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 1.254,78 triệu đồng. So với tháng trước, tăng 09 vụ, nhà sập tăng 10 căn, nhà tốc mái hư hại tăng 12, ước thiệt hại tăng 880,78 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, tăng 17 vụ, nhà sập tăng 11 căn, nhà tốc mái hư hại tăng 21 vụ, ước thiệt hại giảm 987,78 triệu đồng (tháng 8/2022, xảy ra 9 vụ giông lốc, làm sập 03 căn nhà và tốc mái, hư hại 15 căn nhà, ước thiệt hại 267 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay đã xảy ra 45 vụ dông lốc làm sập 19 căn nhà và tốc mái, hư hại 61 căn nhà, ước số tiền thiệt hại là 1.608,78 triệu đồng. Chính quyền địa phương đã hỗ trợ sửa chữa nhà và 5 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 25 vụ giông lốc, làm sập 15 căn nhà, tốc mái hư hại 63 căn nhà, ước thiệt hại 1.894 triệu đồng.
- Mưa lớn, lũ, ngập lụt: Do ảnh hưởng của bão số 1 và số 2, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang xảy ra mưa lớn kéo dài nhiều ngày liên tục, kèm theo gió mạnh đã gây ngập úng cục bộ và đổ ngã trên một số loại cây trồng, ước thiệt hại như sau: Cây lúa thiệt hại 5.207,44 ha, Cây ăn trái thiệt hại 4,5 ha, cây hoa màu thiệt hại 13,52 ha, hiện Ban phòng chống thiên tai tỉnh chưa ước được số tiền thiệt hại. So với cùng kỳ tháng 8/2022, không xảy mưa lớn, ngập lụt.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 01 vụ vi phạm môi trường và đã xử lý với số tiền xử phạt là 2 triệu đồng do vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm. So với tháng trước, số vụ vi phạm tăng 01 vụ, số vụ xử lý giảm 01 vụ và số tiền xử phạt giảm 140 triệu đồng, so với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 04 vụ, xử lý giảm 04 vụ, số tiền xử phạt giảm 8,50 triệu đồng, (tháng 8/2022 phát hiện vi phạm môi trường 05 vụ, xử lý 05 vụ, số tiền xử phạt 10,50 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 26 vụ, xử lý 26 vụ với số tiền xử phạt là 619,75 triệu đồng, so với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 18 vụ, xử lý giảm 15 vụ nhưng số tiền xử phạt tăng 44,75 triệu đồng (cộng dồn từ tháng 01 đến tháng 8 năm 2022, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 44 vụ, xử lý 41 vụ, xử phạt 575 triệu đồng).
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, trong tháng 7/2023 đã xảy ra 01 vụ cháy, làm thiệt hại khoảng 600 triệu đồng, tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 02 vụ cháy, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 1.125 triệu đồng./.
[1] Nguyên nhân giảm nhiều do diện tích gieo trồng lúa nằm trên tuyến đường cao tốc đi qua.
[2] Nguyên nhân chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức kéo cày của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp.
[3] Nguyên nhân tăng mạnh là do từ tháng 8/2023 địa phương vận động người dân chuyển đổi diện tích lúa vụ thu đông gieo trồng kém hiệu quả sang nuôi thủy sản, phát triển thêm khoảng 2.000 ha so với chỉ tiêu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao năm 2023, nâng tổng chỉ tiêu phát triển diện tích nuôi thủy sản năm 2023 lên 11.100 ha.
[4] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 65,53 ha, tăng 1,46% (bằng 0,94 ha) so với cùng kỳ.
[5] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Đặc biệt là nhiều hộ mở rộng hoặc chuyển đổi diện tích từ diện tích đất vườn còn trống, diện tích nuôi chưa có hiệu quả sang nuôi các đối tượng thủy sản khác có giá trị kinh tế, phù hợp nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm an toàn; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân (như nuôi Ba ba).
[6] Nguyên nhân tăng chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 8 trên 533 triệu kwh, tăng 1,33% so với tháng trước và tăng 89,68% so với cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm trước các tổ máy mới vận hành chính thức, nên sản lượng chỉ đạt 281 triệu kwh). Vì vậy, đã làm tăng đột biến giá trị sản xuất ngành này so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại sau đợt ảnh hưởng kinh tế thế giới suy thoái vào đầu năm, nên đã làm sản lượng một số sản phẩm có giá trị lớn tăng so với cùng kỳ như: sản lượng sản xuất nước mắm được 12,09 triệu lít, tăng 607,37% so với cùng kỳ; sản lượng gạo xay xát được 7.850 tấn, tăng 16,02% so với cùng kỳ; sản lượng Mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 1.620 tấn, tăng 78,02% so với cùng kỳ;... Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp ước tháng 8 tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
[7] Nguyên nhân là do trong những tháng đầu năm một số doanh nghiệp thiếu đơn hàng xuất khẩu do kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát tăng cao. Tại các nước vốn là thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp trong tỉnh, có hiện tượng người dân cắt giảm chi tiêu, khiến hàng tồn kho của doanh nghiệp còn nhiều dẫn đến giá cá, tôm giảm mạnh từ 20% đến 30% so với thời điểm cuối năm 2022, dù đã giảm giá, nhưng vẫn rất khó ký được các hợp đồng mới. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng thấp hơn chỉ số chung của toàn ngành.
[8] Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng so với tháng trước là do thực hiện triển khai nhanh việc lập hồ sơ, thủ tục các dự án mới đã bố trí vốn bổ sung từ đầu năm 2023; chủ đầu tư đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công các công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[9] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Vốn đầu tư năm 2023 được phân bổ tăng 14,33% (23.193,50/20.286,62 tỷ đồng) so với năm 2022. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian. Các chủ đầu tư chủ động trình cơ quan có thẩm quyền đề nghị chuyển nguồn vốn từ các dự án chưa có khối lượng giải ngân sang các dự án có nhu cầu bổ sung vốn trong năm 2023. Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh trong việc chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[10] Trong đó: Ngành lưu trú ước được 23,06 tỷ đồng, so tháng trước giảm 5,10% và so với cùng kỳ tăng 37,90%; Ngành ăn uống ước được 542,83 tỷ đồng, so tháng trước giảm 5,77% và so cùng kỳ năm trước tăng 27,48%.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang