I. LĨNH VỰC KINH TẾ
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Sản xuất trồng trọt trong tháng 10/2024 chủ yếu tập trung chăm sóc, thu hoạch rau màu vụ Mùa và sản xuất cây trồng vụ Đông 2024, cũng vào thời điểm này nhiều loại cây ăn quả chủ lực như bưởi, cam… đang thu hoạch chính vụ. Đây cũng là thời điểm người dân tích cực tăng đàn chăn nuôi, vỗ béo, phòng trừ dịch bệnh để chuẩn bị nguồn cung vào dịp Tết cuối năm. Năm nay giá lợn hơi tương đối cao nên người dân cũng mạnh dạn đầu tư tăng đàn, hy vọng mức giá này sẽ ổn định vào cuối năm để người chăn nuôi có một mùa tết nguyên đán thắng lợi và từ đó có điều kiện mở rộng chăn nuôi vào những lứa tiếp theo.
1.1. Sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
* Sản xuất cây hàng năm
Hiện nay, Hà Tĩnh đang tích cực triển khai kế hoạch sản xuất vụ Đông năm 2024 với mục tiêu phủ kín diện tích đất màu, đất vườn. Tuy nhiên, vụ Đông năm nay được dự báo sẽ đối mặt với nhiều thách thức về thời tiết, đặc biệt là mưa lũ đầu vụ và rét đậm, rét hại cuối vụ.
Kết quả sản xuất vụ Mùa: Sản xuất vụ Mùa 2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, nắng nóng nên một số diện tích đất không chủ động được nước tưới ảnh hưởng đến việc gieo cấy. Một số cây trồng như:
Cây lúa: Diện tích gieo trồng ước tính đạt 166 ha, bằng 52,20% (giảm 152 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do một số xã gieo trồng cây lúa vụ Mùa không có hiệu quả nên chuyển sang sản xuất vụ Hè Thu. Ngoài ra, do thời tiết nắng nóng đã ảnh hưởng đến quá trình gieo trồng và phát triển của cây lúa. Bên cạnh đó, tiền công thuê cày bừa cao, sản lượng thu hoạch đạt thấp nên người dân cũng không mặn mà sản xuất. Diện tích gieo trồng lúa Mùa huyện Nghi Xuân đạt 55 ha (giảm 25 ha), huyện Thạch Hà đạt 5 ha (giảm 46 ha), huyện Lộc Hà đạt 106 ha (giảm 81 ha).
Cây lấy củ có chất bột: Diện tích cây lấy củ có chất bột ước tính đạt 236 ha, bằng 95,54% (giảm 11 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng rau các loại vụ Mùa ước tính đạt 212 ha, bằng 104,47% (tăng 11 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Kết quả sản xuất vụ Đông: Thời tiết vụ Đông năm nay khả năng chịu ảnh hưởng của mưa lũ đầu vụ và rét đậm, rét hại giai đoạn cuối vụ. Vì vậy, cần chủ động, linh hoạt trong bố trí thời vụ và cơ cấu cây trồng để né tránh thiên tai, hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn, hiệu quả sản xuất.
Tổ chức sản xuất, huy động tối đa nguồn lực sản xuất, phấn đấu sản xuất phủ kín diện tích đất màu, đất vườn; chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa ở những vùng có điều kiện thoát nước tốt để mở rộng tối đa diện tích vụ Đông, tăng hệ số sử dụng đất. Trên cơ sở khung thời vụ và thời gian sinh trưởng các giống, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của từng địa phương, từng vùng, theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, bố trí thời vụ gieo trồng phù hợp đảm bảo sản xuất an toàn, hiệu quả. Năm nay, diện tích cây dứa liên kết với Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao từ nay đến cuối vụ Đông trồng khoảng 330 ha, nâng tổng diện tích trồng dứa năm nay đạt 400 ha tại các địa phương như huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Vũ Quang.
* Sản xuất cây lâu năm
Cây lâu năm hiện nay người dân đang tập trung đầu tư thâm canh trên diện tích hiện có; trồng mới và trồng tái canh với quy mô phù hợp kết hợp ứng dụng khoa học kỹ thuật; chú trọng phòng trừ sâu bệnh giai đoạn sau thu hoạch; trồng thay thế, bổ sung các diện tích hư hỏng. Thực hiện các biện pháp bảo vệ các vườn cây trong mùa mưa lũ, chủ động các giải pháp tiêu úng kịp thời khi gặp mưa lũ, phòng trừ hiệu quả các loại sâu, bệnh để đảm bảo năng suất và chất lượng sản phẩm.
Năm nay thời tiết thuận lợi cùng với quá trình chăm sóc áp dụng đúng quy trình kỹ thuật nên năng suất và chất lượng cam, bưởi được nâng lên. Sản lượng cam, bưởi dự báo cao hơn so với năm trước. Các loại cây công nghiệp như chè, cao su cũng được chăm sóc và thu hoạch thường xuyên, tạo thu nhập cho người dân để ổn định cuộc sống và tiếp tục tái đầu tư phát triển sản xuất.
* Tình hình sâu bệnh, thiệt hại:
Cây ngô: Sâu keo mùa thu gây hại trên các trà ngô 3-7 lá, mật độ 2-4 con/m2, diện tích nhiễm 18 ha; sâu đục thân, đục bắp gây hại tỷ lệ trung bình 1-3%, nơi cao 3-5%, diện tích nhiễm 15 ha; bệnh khô vằn, đốm lá gây hại trên trà ngô sớm, diện tích nhiễm 30 ha, phân bố tại huyện Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê…
Cây ăn quả có múi: Sâu đục thân, đục cành, diện tích nhiễm 23 ha; nhện nhỏ diện tích nhiễm 37 ha; sâu vẽ bùa 16 ha; ruồi đục quả, ngài chích hút 125 ha; bệnh chảy gôm, diện tích nhiễm 20 ha, phân bố tại huyện Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê.
1.1.2. Sản xuất chăn nuôi
Kết quả sản xuất chăn nuôi: So cùng kỳ năm trước, đàn trâu hiện có 66.863 con, bằng 99,28%; đàn bò hiện có 164.562 con, bằng 97,57%; đàn lợn hiện có 410.210 con, bằng 103,76%, đàn gia cầm hiện có 10.285 ngàn con, bằng 103,99%, trong đó đàn gà hiện có 8.524 ngàn con, bằng 102,58% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 10 là thời điểm người dân tích cực tăng đàn chăn nuôi, vỗ béo, phòng trừ dịch bệnh để chuẩn bị nguồn cung vào dịp Tết cuối năm. Năm nay giá lợn hơi tương đối cao nên người dân cũng mạnh dạn đầu tư tăng đàn, hy vọng mức giá này sẽ ổn định vào cuối năm để người chăn nuôi có một mùa tết thắng lợi và từ đó có điều kiện mở rộng chăn nuôi vào những lứa tiếp theo.
Tuy nhiên, theo khuyến cáo của ngành chuyên môn, thời điểm này thời tiết diễn biến thất thường tạo cơ hội cho dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm phát triển. Vì thế, người chăn nuôi cần chú trọng tiêm vắc-xin phòng dịch đầy đủ, tiến hành tiêu độc khử trùng chuồng trại thường xuyên. Phát hiện dịch bệnh phải thông báo ngay cho cơ quan chức năng kịp thời xử lý, không để dịch bệnh lan ra diện rộng.
Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Từ đầu năm 2024 đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra một số loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên gia súc như: Dịch tả lợn Châu Phi, Viêm da nổi cục, lở mồm long móng trên trâu, bò. Nhìn chung, các loại dịch bệnh xảy ra với quy mô nhỏ, được khống chế, dập tắt ở diện hẹp, cụ thể như:
- Dịch Viêm da nổi cục trên trâu bò: Xảy ra tại 17 xã thuộc 05 huyện (Can Lộc, Lộc Hà, Nghi Xuân, Thạch Hà, Cẩm Xuyên) làm cho 156 con bò mắc bệnh, trong đó có 20 con chết, tiêu hủy với khối lượng 3.411 kg.
- Dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại 17 xã thuộc 05 huyện, thị xã (Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Đức Thọ, Nghi Xuân, thị xã Kỳ Anh) làm cho 182 con lợn mắc bệnh, chết, tiêu hủy khối lượng 12.471,6 kg.
1.2. Sản xuất lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp: Diện tích rừng trồng mới tháng 10 ước đạt 1.922 ha, bằng 101,42% (tăng 27 ha), sản lượng gỗ khai thác ước đạt 63.154 m3 bằng 103,27% (tăng 1.997 m3). Hoạt động trồng rừng và khai thác lâm sản vẫn được các cấp chính quyền cũng như người dân quan tâm thực hiện. Đây là tháng có thời tiết mát mẻ, mưa nhiều thuận lợi cho việc trồng, chăm sóc rừng và cũng là thời điểm các chủ rừng tranh thủ thu hoạch các diện tích đến tuổi khai thác để tránh thiệt hại do mưa bão gây ra nên sản lượng đạt khá cao so với các tháng trước.
Tính chung 10 tháng năm 2024 diện tích rừng trồng mới ước đạt 6.890 ha, bằng 102,88% (tăng 193 ha), sản lượng gỗ khai thác ước đạt 416.836 m3 bằng 110,67% (tăng 40.195 m3) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng trồng và lâm sản khai thác vẫn chủ yếu tập trung ở các địa phương: Huyện Hương sơn, Hương Khê, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, huyện Kỳ Anh.
Thiệt hại về rừng: Trong tháng 10 không xảy ra cháy rừng, nhưng xảy ra 6 vụ phá rừng, với diện tích diện tích rừng bị phá 1,7 ha. Như vậy, tính từ đầu năm đến ngày 25/10/2024, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xảy ra 4 vụ cháy rừng (giảm 2 vụ), với diện tích rừng bị cháy là 1,74 ha (giảm 3,14 ha) và 51 vụ phá rừng (giảm 60 vụ), với diện tích rừng bị phá là 13,94 ha (giảm 26,53 ha) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Tình hình sản xuất và khai thác thủy hải sản
Kết quả sản xuất thủy sản trong tháng tăng hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng lại giảm so với tháng trước. Sản lượng chỉ đạt hơn 50% so với tháng trước, do hiện nay bước vào mùa mưa bão, biển động nên tàu thuyền ít ra khơi đánh bắt cộng với nguồn thủy hải sản sinh sôi ít hơn những tháng trước. Bên cạnh đó hoạt động nuôi trồng do mới thu hoạch xong vụ Xuân Hè người dân tiếp tục thả nuôi vụ mới phục vụ tết nguyên đán nên sản lượng nuôi trồng đạt giảm. Tình hình cụ thể:
- Sản xuất và khai thác thủy hải sản: Tổng sản lượng thủy hải sản ước tính tháng ước đạt 4.340 tấn, bằng 102,46% (tăng 104 tấn), trong đó sản lượng khai thác ước đạt 3.192 tấn, bằng 102,67% (tăng 83 tấn) và sản lượng nuôi trồng ước đạt 1.148 tấn, bằng 101,86% (tăng 21 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 10 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy hải sản khai thác và nuôi trồng ước đạt 51.978 tấn, bằng 103,42% (tăng 1.720 tấn) so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng khai thác ước đạt 36.624 tấn, bằng 103,35% (tăng 1.188 tấn) và sản lượng nuôi trồng ước đạt 15.354 tấn, bằng 103,59% (tăng 532 tấn) so cùng kỳ năm trước.
Trong tháng ước tính đã sản xuất được 27 triệu con giống tôm thẻ, giảm 3 triệu con so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, ước tính sản xuất được 537 triệu con tôm giống, tăng 13 triệu con so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 17 triệu con giống tôm sú và 520 triệu con giống tôm thẻ.
Dự báo trong những tháng tới, khi điều kiện thời tiết xấu, mưa bão, lũ lụt có thể xẩy ra bất thường nên kết quả hoạt động sản xuất thủy sản dự kiến sẽ đạt thấp hơn, nhất là đối với hoạt động khai thác biển.
- Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Trong tháng xảy ra bệnh đốm trắng trên tôm tại 09 hộ nuôi thuộc 04 xã, 3 huyện (Lộc Hà, Kỳ Anh, Thạch Hà) với diện tích 8.85 ha. Hiện nay, còn 0.25 ha diện tích nuôi tôm bị bệnh đốm trắng tại xã Thạch Long, huyện Thạch Hà chưa qua 15 ngày.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tính chung 10 tháng năm 2024 giảm 1,37% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính dẫn đến chỉ số sản xuất công nghiệp giảm là do chịu ảnh hưởng lớn nhất từ ngành sản xuất kim loại sụt giảm dẫn đến tăng trưởng ngành chế biến chế tạo, cũng như toàn ngành công nghiệp chưa đạt như kỳ vọng. Cùng với đó là ngành sản xuất và phân phối điện cũng chững lại khi mà tổ máy số 2 của nhà máy nhiệt nhiệt điện 1 trong tháng 8 và tháng 9/2024 đang tạm ngừng để bảo dưỡng.
2.1. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)
Ước tính tháng 10/2024, chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 9,13% so với tháng trước và giảm 1,69% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng ước giảm 3,38% so với tháng trước và tăng 29,35% so với cùng kỳ; ngành công nghiệp chế biến chế tạo ước tăng 4,96% so với tháng trước và giảm 3,98% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện dự tính tăng 49,75% so với tháng trước và tăng 8,62% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải dự ước giảm 10,5% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 5,11%.
Ước tính 10 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh giảm 1,37% so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 32,42% (đóng góp 0,39 điểm vào mức tăng chung toàn ngành); ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,25% làm giảm 4,26 điểm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 16,96% đóng góp 2,2 điểm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,71% đóng góp 0,28 điểm vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp Hà Tĩnh.
Thời gian tới ngành công nghiệp có nhiều điểm thuận lợi như: Sản phẩm vật liệu xây dựng, vỏ bào, dăm gỗ đang được đẩy mạnh xuất khẩu; ngành may mặc có nhiều tín hiệu tích cực; tổ máy số 2 nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 đã hoàn thành trùng tu, đi vào hoạt động từ giữa tháng 10; nhà máy sợi Nghệ Tĩnh đi vào sản xuất thương mại ổn định, sản lượng bình quân dự tính đạt gần 400 tấn/1 tháng. Tuy nhiên, ngành công nghiệp vẫn còn những khó khăn, thách thức như: Sản phẩm mới pack pin còn phụ thuộc vào thị trường; nhà máy thép Formosa gặp nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu thép ra thị trường ngoài nước. Do đó, áp lực để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm là rất khó khăn; đòi hỏi sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Một số sản phẩm chủ yếu
Trong số 20 nhóm sản phẩm chủ yếu được tổng hợp, có 14 nhóm sản phẩm cộng dồn 10 tháng năm 2024 tăng so cùng kỳ và có 6 nhóm sản phẩm có chỉ số giảm trong tổng số sản phẩm công nghiệp chủ yếu.
Một số sản phẩm công nghiệp 10 tháng năm 2024 tăng so với năm trước: Quặng inmenit và tinh quặng inmenit tăng 100,63%; đá xây dựng khác tăng 31,07%; vỏ bào, dăm gỗ tăng 20,82%; bia đóng lon tăng 19,86%; điện sản xuất tăng 16,3%; bê tông trộn sẵn tăng 14,03%; ...
Một số sản phẩm công nghiệp 10 tháng năm 2024 giảm so với cùng kỳ năm trước: Mực đông lạnh giảm 80,11%; gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm 25,06%; sản xuất dược phẩm giảm 8,87%; thép không gỉ ở dạng bán thành phẩm giảm 8,55%; chè (trà) nguyên chất, chè (trà) xanh, chè (trà) đen) giảm 3,2% và sản xuất sợi giảm 1,34%.
Kết quả trên cho thấy sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đầu tư, nâng cấp máy móc thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu của các dự án lớn đang triển khai. Các doanh nghiệp trên địa bàn đang đẩy mạnh tìm kiếm thị trường, mở rộng mạng lưới khách hàng để tăng tốc sản xuất kinh doanh trong chặng giữa năm, sớm hoàn thành mục tiêu trong năm nay.
2.3. Tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 10/2024 tăng 0,02% so với tháng trước, giảm 5,41% so với cùng kỳ năm trước. Các dự án, nhà máy mới đi vào hoạt động sản xuất đã góp phần tăng số lượng lao động trên địa bàn so với năm trước. Cộng dồn đến cuối tháng 10 năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 2,32% so với cùng kỳ. Trong đó, chỉ số sử dụng lao động của ngành khai khoáng giảm 4,03% so với năm trước. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, một số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm vì vậy nguồn nhân lực tăng so với cùng kỳ. Chỉ số sử dụng lao động ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,15%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 0,68% so với cùng kỳ năm 2023.
3. Vốn đầu tư
UBND tỉnh Hà Tĩnh vừa có Văn bản số 6220-CĐ/UBND, ngày 17/10/2024 yêu cầu các đơn vị thực hiện quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, tiếp tục đề cao trách nhiệm, tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 104/CĐ-TTg ngày 08/10/2024 về việc đôn đốc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2024.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 10/2024 ước đạt 995,92 tỷ đồng, tăng 8,71% so với tháng trước và tăng 82,89% so với cùng kỳ năm nước. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 777,55 tỷ đồng, tăng 7,25% so với tháng trước và tăng 79,06% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 169,57 tỷ đồng, tăng 12,63% so với tháng trước và tăng 105,39% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 48,80 tỷ đồng, tăng 20,3% so với tháng trước và tăng 75,96% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 10, với sự quyết tâm đảm bảo tiến độ thi công các công trình nên các đơn vị thi công vẫn đảm bảo tiến độ đề ra, vốn đầu tư thực hiện tăng hơn so với tháng trước và tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước do nguồn vốn bổ sung kế hoạch vốn năm 2024 được bổ sung vào cuối tháng 8/2024 nên nguồn vốn thực hiện và giải ngân dồn vào những tháng cuối năm.
Dự ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý 10 tháng năm 2024 ước đạt 4.864,40 tỷ đồng, đạt 71,35% kế hoạch năm, tăng 13,05% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 3.401,37 tỷ đồng, đạt 67,53% kế hoạch vốn, tăng 4,9% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 1.122,72 tỷ đồng, đạt 80,58% kế hoạch vốn, tăng 51,75% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 340,30 tỷ đồng, đạt 87,68% kế hoạch vốn, tăng 6,17% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân kết quả vốn đầu tư thực hiện đến cuối tháng báo cáo tăng 13,05% so với cùng kỳ năm trước, do năm nay kế hoạch vốn tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm trước, bên cạnh đó tình hình thời tiết từ đầu năm đến nay thuận lợi cho việc thi công các công trình, nguồn vốn giải ngân được đảm bảo nên các chủ đẩu tư đẩy nhanh tiến độ thi công.
4. Thương mại, dịch vụ
4.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại, dịch vụ tháng 10 và 10 tháng năm 2024 tăng trưởng khá ổn định. Thị trường hàng hoá, dịch vụ càng về cuối năm càng sôi động, do từ đầu năm 2024 tỉnh đã triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình bình ổn thị trường, tổ chức kết nối doanh nghiệp phân phối của tỉnh với nguồn hàng tại các địa phương nhằm bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu. Dự báo trong thời gian tới, ngành thương mại - dịch vụ tiếp tục là điểm sáng của nền kinh tế tỉnh nhà.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa: Tháng 10/2024 doanh thu ước đạt 5.892,74 tỷ đồng, tăng 2,10% so với tháng trước, tăng 15,38% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm hàng biến động tăng khá so với tháng trước, như xăng, dầu, may mặc, kim loại quý và hàng hoá khác khi nhu cầu và giá cả các loại hàng hoá tăng. Nguyên nhân chủ yếu do yếu tố mùa vụ như trùng dịp lễ 13/10, 20/10, thời tiết chuyển giao mùa. Bên cạnh đó cũng có các nhóm hàng có doanh thu giảm so với tháng trước như vật phẩm văn hoá, giáo dục, ô tô và phương tiện đi lại… do nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập giảm dần sau đợt cao điểm trong những tháng trước, mặc dù thị trường ô tô tháng 9, tháng 10 đã có sự thay đổi đáng kể tuy nhiên vẫn chưa đạt mức so với cùng kỳ.
Tính chung 10 tháng năm 2024, doanh thu bán lẻ ước đạt 57.404,85 tỷ đồng, tăng 18,47% so với cùng kỳ năm trước. Do các chính sách kích cầu như giảm thuế VAT 2% các mặt hàng thiết yếu, tăng lương cơ bản, dự kiến giảm lãi suất cho vay nhằm đảm bảo mức tiêu dùng cho người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, với Nghị định 1010/2024/NĐ-CP về “việc giảm 50% mức thu lệ phí trước bạ (LPTB) đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước” có hiệu lực thi hành từ 01/10/2024 đến 30/11/2024 đã có tác động tích cực trung bình 8 tháng năm 2024, nhóm hàng ô tô con đạt hơn 187 tỷ đồng/tháng, riêng 2 tháng (tháng 9 và 10) ước đạt hơn 340 tỷ.
Dự báo về cuối năm thị trường bán lẻ càng sôi động, mặc dù đang trong tình trạng khó khăn chung của nền kinh tế, giá cả các loại hàng hoá đều có biến động tăng nhưng nhu cầu người dân vẫn ưu tiên tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu cho nên doanh thu các mặt hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, may mặc, đồ dùng gia đình… chiếm tỷ trọng doanh thu lớn trong tổng mức và tăng trưởng khá ổn định tiếp tục.
Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Doanh thu tháng 10/2024 ước ước đạt 798,33 tỷ đồng, tăng 4,64% so với tháng trước, tăng 15,29% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù trong tháng hoạt động lưu trú, lữ hành giảm mạnh so với tháng trước do thời tiết và tính chất mùa vụ nhưng hoạt động ăn uống vẫn duy trì ổn định, nhu cầu ăn uống ngoài gia đình ngày càng tăng.
Tính chung 10 tháng năm 2024 doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 7.120,31 tỷ đồng, tăng 12,43% so với cùng kỳ năm trước. Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi doanh thu ăn uống (chiếm 95,76% tổng doanh thu) tăng 12,67% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động ăn uống ngoài gia đình vẫn là nhóm ngành chủ đạo và tăng trưởng ổn định chứng tỏ đời sống người dân đang dần cải thiện. Ngành du lịch, lưu trú đang được các cấp, ngành và các đơn vị kinh doanh chú trọng đầu tư và có những tín hiệu tích cực, tuy nhiên thời gian tới khi mùa du lịch cao điểm đã qua thì 2 nhóm ngành này dự ước sắp tới sẽ tiếp tục giảm doanh thu. Tỉnh nhà cần có chính sách về du lịch để tương xứng với tiềm năng du lịch.
Dịch vụ khác: Doanh thu tháng 10 ước đạt 384,44 tỷ đồng, tăng 1,85% so với tháng trước và tăng 7,48% so với cùng kỳ năm trước, trong tháng ảnh hưởng thời tiết giao mùa, thay đổi thất thường tạo điều kiện thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virus gây bệnh phát triển tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ y tế. Bên cạnh đó bước vào mùa cưới hỏi cũng như các công trình đẩy nhanh tiến độ thi công nên như cầu các dịch vụ cho thuê đồ dùng gia đình, máy móc… tăng khá.
Tính chung 10 tháng năm 2024 doanh thu dịch vụ khác ước đạt 3.792,61 tỷ đồng, tăng 7,50% so với cùng kỳ năm trước, trong 6 nhóm hàng dịch vụ khác chỉ có nhóm hàng bất động sản là tăng trưởng âm, còn lại 05 nhóm hàng đều có tăng trưởng dương. Cụ thể: Nhóm kinh doanh bất động sản giảm 11,06% do một phần tiền đang được “ngâm” trong lĩnh vực chứng khoán và vàng; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 3,86% do ngành cho thuê máy móc, thiết bị …tăng trưởng mạnh (tăng 16,07%); nhóm ngành giáo dục đào tạo tăng 8,55% do tăng chi phí học bằng lái xe; nhóm hàng y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 19,36% do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 19/11/2023; nhóm ngành nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 41,52% và dịch vụ khác tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy đời sống người dân tỉnh nhà ngày càng được nâng cao.
4.2. Hoạt động vận tải
Hoạt động vận tải tháng 10 và 10 tháng năm 2024 tăng trưởng khá. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa tiếp tục tăng cao, các loại phương tiện tải trọng lớn đang được chú trọng đầu tư thay thế các loại phương tiện cũ, trọng tải thấp. Công tác quản lý, đăng kiểm phương tiện, tuần tra kiểm soát giao thông được quản lý chặt chẽ, tăng cao tính an toàn khi lưu thông. Bên cạnh đó, sự có mặt của xe taxi điện với các ứng dụng gọi xe công nghệ cũng góp phần tăng cường hoạt động vận tải hành khách. Doanh thu hoạt động kho bãi, logistics cũng tăng mạnh so năm trước do sự mở rộng của hệ thống cầu cảng tại khu kinh tế Vũng Áng.
Kết quả vận tải, kho bãi tháng 10 doanh thu ước đạt 681,80 tỷ đồng, tăng 3,93% so với tháng trước, tăng 10,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách tăng 6,27% so với tháng trước và tăng 20,45% so với cùng kỳ năm trước, do trong tháng tình hình thời tiết mưa nhiều cộng với việc trùng các gày lễ nên nhu cầu phương tiện đi lại tăng. Vận tải hàng hóa chiếm 63,07% tỷ trọng doanh thu, tăng 3,09% so với tháng trước và tăng 7,23% so với cùng kỳ do những tháng cuối năm, tiến độ xây dựng các công trình được đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thiện, nhất là khắc phục hư hỏng sau lũ; bên cạnh đó các đầu mối bán buôn đẩy mạnh thu gom, tích trữ hàng hóa phục vụ nhu cầu mua sắm hàng hóa dịp cuối năm. Doanh thu dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải cũng tăng 4,51% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ do tăng dịch vụ kho bãi đường biển bốc xếp hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua Cảng Sơn Dương và Cảng Vũng Áng.
Tính chung 10 tháng năm 2024, kết quả hoạt động vận tải, kho bãi doanh thu ước đạt 7.052,3 tỷ đồng, tăng 19,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vận tải hành khách tăng 39,61%; hàng hoá tăng 14,88% và dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải tăng 28,85%. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa tiếp tục tăng cao nhờ vào sự phục hồi kinh tế và các hiệp định thương mại tự do, thúc đẩy xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp vận tải đã và đang đẩy mạnh áp dụng công nghệ số, như hệ thống quản lý kho thông minh và theo dõi lộ trình xe tải qua GPS. Các dự án của Chính phủ đã và đang đầu tư vào nâng cấp đường bộ, cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động vận tải và kho bãi, xu hướng sử dụng phương tiện vận tải thân thiện với môi trường ngày càng gia tăng với nhiều doanh nghiệp chuyển sang sử dụng xe điện hoặc xe hybrid. Tuy vậy, ngành vận tải, kho bãi tỉnh vẫn còn nhiều thách thức phải đối mặt như giá nhiên liệu biến động, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu về chất lượng dịch vụ ngày càng cao từ khách hàng.
4.3. Xuất nhập khẩu hàng hóa
Tình hình xuất - nhập khẩu trong tháng 10 có dấu hiệu khởi sắc hơn sau thời gian dài gặp khó khăn. Trị giá xuất - nhập khẩu trong tháng ước đạt 499,4 triệu USD, tăng 0,38% so với tháng trước và tăng 14,52% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, tính chung 10 tháng năm 2024 hoạt động xuất - nhập khẩu đang gặp khó khăn khi trị giá xuất khẩu mặt hàng chủ lực thép vẫn đang giảm khá sâu. Tổng giá trị xuất nhập khẩu 10 tháng đạt 5.069,75 triệu USD giảm 1,94% so với cùng kỳ (giảm 100,24 triệu USD).
Về xuất khẩu: Trị giá xuất khẩu tháng 10/2024 ước đạt 210,8 triệu USD, giảm 0,24% so với tháng trước nhưng tăng đến 24,08% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do trị giá xuất khẩu mặt hàng thép, phôi thép trong tháng ước đạt 186,2 triệu USD (chiếm 88,33% trị giá xuất khẩu toàn tỉnh), giảm 0,62% so với tháng trước và tăng 21,76% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh mặt hàng thép, phôi thép có giảm nhẹ so với tháng trước thì các mặt hàng chủ lực khác tăng cả so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước, nhất là các mặt hàng dăm gỗ, xơ sợi…
Tính chung 10 tháng năm 2024, trị giá xuất khẩu ước đạt 1.926,05 triệu USD, giảm 10,43% (giảm 224,22 triệu USD) so với cùng kỳ. Nguyên nhân do tình hình kinh tế toàn cầu chịu tác động tiêu cực từ lạm phát và tăng lãi suất, dẫn đến nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thép trên thế giới giảm sút, nên mặt hàng thép và phôi thép của Formosa Hà Tĩnh gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu, chỉ tính riêng xuất khẩu của Formosa 10 tháng năm 2024 (chiếm 92,46% giá trị xuất khẩu) đã giảm đến 12,41% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, trị giá xuất khẩu mặt hàng xơ, sợi dệt các cũng giảm đến 30,58% so với cùng kỳ. Mặc dù trị giá xuất khẩu của mặt hàng chè, dăm gỗ, dệt và may mặc tăng, tuy nhiên do những mặt hàng này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nên không tác động nhiều đến kết quả xuất khẩu chung.
Về nhập khẩu: Trị giá nhập khẩu tháng 10/2024 ước đạt 288,6 triệu USD, tăng 0,83% so với tháng trước và tăng 8,42% so với cùng kỳ năm trước, do như cầu hàng hoá nhập khẩu dịp cuối năm. Tính chung 10 tháng năm 2024 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 3.143,7 triệu USD tăng 4,11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá trị nhập khẩu của Formosa ước đạt 2.355,59 triệu USD, chiếm 74,93% trị giá nhập khẩu toàn tỉnh, tăng 8,80% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2024, tỉnh Hà Tĩnh đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 tỷ USD, với kết quả đến tháng 10 mới chỉ đạt hơn 1,9 tỷ USD, đặt áp lực rất lớn vào 2 tháng cuối năm, vì vậy, dự ước những tháng tới hoạt động xuất khẩu sẽ khởi sắc hơn nhưng vẫn khó hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch năm.
5. Chỉ số giá tiêu dùng
Thị trường giá cả các mặt hàng trong tháng 10 có biến động mạnh ở nhóm hàng nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây; giá khí đốt gas hóa lỏng và dầu hỏa biến động tăng theo thị trường thế giới. Chỉ số giá bình quân tháng 10/2024 tăng 1,05% so với tháng trước nhưng so cùng kỳ đã tăng đến 6,01%. Thị trường vàng và ngoại tệ giá vẫn đang ở mức cao và ngày càng tăng mạnh vào những ngày cuối tháng.
Chỉ số CPI chung tháng 10 ngoài nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng biến động mạnh thì các nhóm hàng khác cơ bản không biến động nhiều. So với cùng kỳ năm trước với mức tăng 6,01%, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính thì chỉ có 2 nhóm hàng có biến động giảm là giao thông và bưu chính viễn thông do mặc dù việc giá xăng, dầu trong tháng điều chỉnh tăng sau các kỳ điều chỉnh gần đây nhưng giá so với cùng tháng năm trước đang ở mức thấp. Còn lại các nhóm hàng khác đều có mức tăng giá cao, đặc biệt các mặt hàng thiết yếu là ăn và dịch vụ ăn uống tăng đến 8,15%, trong đó: Lương thực tăng 10,85%, thực phẩm tăng 6,10% và ăn uống ngoài gia đình tăng đến 15,83%.
Tính chung 10 tháng năm 2024, CPI bình quân tăng 3,59% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị tăng 4,24%, nông thôn tăng 3,31%. Nhìn chung, thị trường tiêu dùng, từ đầu năm đến nay các mặt hàng có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện nước sinh hoạt. Trong năm 2024, Chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức thấp, khoảng 3-4%. Dự báo CPI có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như giá nguyên liệu toàn cầu, chính sách tiền tệ và tình hình sản xuất trong nước, các biện pháp điều hành giá, quản lý cung cầu và hỗ trợ sản xuất được thực hiện để đảm bảo sự ổn định cho thị trường.
Dự kiến CPI sang tháng 11 trong tỉnh dự kiến tiếp tục tăng, cụ thể giá các loại lương thực thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc, đồ dùng gia đình… sẽ tăng trở lại về cuối năm khi thời tiết chuyển mùa và việc vận chuyển gặp nhiều khó khăn hơn; giá dầu thô trên thị trường thế giới ở mức cao khiến giá xăng dầu có thể tiếp tục tăng; giá gạo cũng tăng giá khi nguồn dự trữ lúa sản xuất từ hai vụ trong năm giảm dần. Cùng với đó, việc giá điện cơ sở được điều chỉnh cũng có thể tác động đến giá điện sinh hoạt bình quân tăng theo
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI.
1. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Hiện nay đang là tháng cao điểm “Vì người nghèo” các hoạt động gắn với chào mừng kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2024) và Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X. Trên địa bàn đã tổ chức các hoạt động thăm hỏi, tặng quà; khởi công, bàn giao nhà đại đoàn kết; hỗ trợ mô hình sinh kế, hỗ trợ phát triển sản xuất... Phối hợp hướng dẫn rà soát, lập danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo chính xác; phân loại hộ nghèo theo nhu cầu cần hỗ trợ (nhà ở, phát triển sản xuất,...); rà soát hộ có nhà tạm, nhà dột nát để xây dựng các phương án hỗ trợ phù hợp, góp phần thực hiện tốt Phong trào thi đua “Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong năm 2025”.
Đồng thời, đây cũng là tháng trùng với các ngày lễ như ngày Doanh nhân Việt Nam, ngày Phụ nữ Việt Nam… nhằm mang đến cơ hội mua sắm với giá thành khuyến mãi, kích cầu tiêu dùng dịp cuối năm, nhiều cửa hàng bán lẻ trên địa bàn đang áp dụng các chương trình ưu đãi, sức mua tăng, đẩy mạnh doanh thu trong những tháng cuối năm.
Nhìn chung, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn 10 tháng năm 2024 ổn định, công tác đảm bảo an sinh xã hội luôn được quan tâm, thực hiện đầy đủ và triển khai kịp thời. Việc điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng giúp người thụ hưởng cải thiện đời sống, an tâm công tác, góp phần ổn định an sinh xã hội.
2. Giáo dục
Năm học 2024-2025, toàn tỉnh có 668 trường mầm non và phổ thông, trong đó có 28 trường ngoài công lập, so với năm học trước, hệ thống mạng lưới trường học ổn định. Cơ sở vật chất, thiết bị cơ bản đáp ứng yêu cầu dạy học trong năm học mới. Số phòng học kiên cố chiếm tỷ lệ khá cao: Mầm non 94,1%, tiểu học 96,8%; THCS 98,7%; THPT 100%. Đạt 100% trường học của tỉnh đảm bảo tỷ lệ 1 phòng học/1 lớp. Với nhiều giải pháp đồng bộ, đội ngũ giáo viên các cấp học trên địa bàn tỉnh năm học 2024-2025 cơ bản đảm bảo số lượng, chất lượng để triển khai chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên. Đội ngũ giáo viên được tập huấn, bồi dưỡng có chất lượng, nhất là giáo viên dạy lớp 5, lớp 9 và lớp 12.
Một số khó khăn đầu năm học của tỉnh là việc mua sắm bổ sung thiết bị dạy học thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 chưa được thực hiện kịp thời; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nhiều nơi xuống cấp, thiếu phòng học bộ môn, phòng chức năng; còn tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ theo bộ môn; chưa có đủ giáo viên được đào tạo để dạy môn tích hợp cấp THCS; phải điều động giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật cấp THCS lên dạy THPT; phát hành tài liệu giáo dục địa phương còn gặp khó khăn do vướng mắc về luật đấu thầu… Đặc biệt, để góp phần khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, thừa thiếu cục bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2091/QĐ-UBND ngày 28/8/2024 về việc phê duyệt chỉ tiêu, cơ cấu tuyển dụng viên chức giáo dục và điều chuyển, biệt phái giáo viên năm học 2024-2025.
3. Hoạt động y tế
Trong tháng trên địa bàn tỉnh ghi nhận 34 trường hợp sốt phát ban dạng sởi (xảy ra tại huyện Hương Khê), theo kết quả xét nghiệm, đã có 14 trường hợp dương tính với bệnh sởi. Mặc dù ngành chức năng và các địa phương đã triển khai công tác tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh và tăng tỷ lệ bao phủ tiêm chủng cho người dân song dịch bệnh vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đến ngày 22/10/2024 toàn tỉnh đã có gần 100 ca mắc sởi với các ổ dịch ở huyện Đức Thọ, Hương Khê, Lộc Hà. Trước diễn biến phức tạp của bệnh sởi, ngành Y tế đang triển khai tiêm vắc-xin tại một số địa phương để gia tăng miễn dịch cộng đồng.
Công tác phòng chống HIV/AIDS:
Trong tháng, trên địa bàn trên địa bàn phát hiện 1 ca chết vì AIDS và không có ca phát hiện mới và chuyển qua AIDS. Tính chung 10 tháng năm 2024 đã có 26 người nhiễm mới HIV, 20 người chuyển thành AIDS, 6 người chết vì AIDS. So cùng kỳ năm trước giảm 13 người nhiểm mới HIV, giảm 11 người chuyển thành AIDS nhưng số người chết vì AIDS chỉ tăng 1 người.
Công tác an toàn thực phẩm:
Trong tháng không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tập thể nào nhưng có 49 ca ngộ độc đơn lẻ (giảm 1 vụ ngộ độc tập thể và 40 ca ngô độc đơn lẻ so với tháng trước). Các ca ngộ độc được điều trị kịp thời không có ca nào tử vong. Tính chung 10 tháng năm 2024 đã xảy ra 3 vụ ngộ độc tập thể khiến 13 người bị ngộ độc và có 730 ca ngộ độc đơn lẻ, không có người chết vì ngộ độc, so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ ngộ độc tập thể, giảm 29 người ngộ độc tập thể và giảm 74 ca ngộ độc đơn lẻ.
Bên cạnh diễn biến tình hình các dịch bệnh, ngành Y tế trong tháng cũng ghi nhận sự thành công của ca phẫu thuật u tuyến giáp tại Trung tâm Y tế huyện Đức Thọ cùng sự phối hợp với các bác sỹ nội trú Bệnh viện Trung ương Huế tạo cơ hội điều trị cho các bệnh nhân địa phương, giảm thiểu áp lực cho tuyến trên.
4. Hoạt động văn hoá, thể thao
Hoạt động văn hoá, thể thao trong đời sống tinh thần của người dân Hà Tĩnh, một số kết quả hoạt động động tiêu biểu có thể kể đến như:
Về hoạt động văn hóa:
Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Hà Tĩnh đã xuất sắc giành 4 huy chương tại Liên hoan Ca múa nhạc toàn quốc, trong đó có 1 huy chương vàng và 3 huy chương bạc. Sáng 11/10/2024, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Xuyên tổ chức hội thi gói bánh chưng, góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, khơi dậy tinh thần đoàn kết chung tay xây dựng xã nông thôn mới nâng cao. Cũng trong tháng, tỉnh đã tổ chức chương trình nghệ thuật kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và 110 năm Ngày sinh anh Lý Tự Trọng. Tối ngày 11/10/2024, tại bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê đã diễn ra buổi giao lưu văn hóa giữa đồng bào dân tộc Chứt của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình
Hoạt động thể thao:
Về Thể thao thành tích cao, tại Giải Đua thuyền Rowing Vô địch châu Á diễn ra từ ngày 10 -13/10 tại Uzbekistan, Hà Tĩnh có VĐV tham gia giải và giành được 02 huy chương (1 HCV, 1 HCB).
Từ ngày 16 - 18/10, tại Khu Thể thao K9 huyện Hương Sơn phối hợp với Sở VH-TT&DL tổ chức Giải Bóng chuyền nữ năm 2024, thu hút gần 200 vận động viên đến từ 13 đội của các huyện, thị xã, thành phố tham gia tranh tài.
5. Tình hình an toàn giao thông
Trong tháng đã xảy ra 29 vụ tai nạn đường bộ, làm 21 người chết, 13 người bị thương (tăng 7 vụ; tăng 4 người chết; tăng 4 người bị thương so với tháng trước), giá trị thiệt hại ước tính khoảng 85 triệu đồng.
Tính chung 10 tháng năm 2024, đã xảy ra 347 vụ tai nạn đường bộ, làm 190 người chết, 214 người bị thương, thiệt hại 2,17 tỷ đồng, giảm 73 vụ, giảm 37 người bị thương, số người chết không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Tai nạn đường sắt xảy ra 3 vụ, làm 1 người chết, 1 người bị thương (giảm 1 vụ và 1 người bị thương so với cùng kỳ năm trước), đến hiện nay không xảy ra tai nạn đường thuỷ.
6. Môi trường
Tình hình bất thường về thiên tai và hỏa hoạn:
Trong tháng đã xảy 9 vụ cháy, không làm thiệt hại về người, ước tính giá trị thiệt hại tài sản 139,27 triệu đồng (giảm 1 vụ so với tháng trước), không xảy ra vụ thiên tai nào.
Tính chung 10 tháng năm 2024 (từ ngày 15/12/2023-14/10/2024) trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy 74 vụ cháy, không để xảy ra vụ nổ nào, không có thiệt hại về người, ước tính giá trị thiệt hại tài sản 736,1 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước giảm 29 vụ cháy và 1 vụ nổ, giảm 1 người chết và 1 người bị thương, giá trị thiệt hại giảm hơn 3,6 tỷ đồng.
Vi phạm môi trường:
Trong tháng, phát hiện 17 vụ vi phạm môi trường và đã xử lý 22 vụ, với tổng số tiền xử phạt 336 triệu đồng; giảm 4 vụ phát hiện, giảm 6 vụ đã xử lý và giảm 176,46 triệu đồng số tiền xử phạt so với tháng trước; so với cùng kỳ năm trước giảm 22 vụ phát hiện, tăng 3 vụ đã xử lý và tăng 281,4 triệu đồng số tiền xử phạt.
Tính chung 10 tháng năm 2024, phát hiện 249 vụ vi phạm môi trường, giảm 165 vụ (giảm 39,86%) và đã xử phạt 236 vụ, giảm 217 vụ (giảm 47,9%). Tổng số tiền xử phạt là 1.619,5 triệu đồng, giảm 162,29 triệu đồng (giảm 11,14%) so với cùng kỳ năm trước.
Trên đây là một số tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh./.
Cục Thống kê tỉnh Hà Tĩnh