Trong quý I/2024, nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang phát triển ổn định, nhiều sự kiện tập trung đông người được tổ chức trên địa bàn vào các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước nói chung, của tỉnh Hậu Giang nói riêng, vì vậy đã góp phần duy trì tốc độ phát triển kinh tế của Tỉnh. Trong quý, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của Tỉnh đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,82%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 11,88%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,92%; doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 17,31%. Cụ thể, kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Tài chính, tín dụng
1.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 3/2024 được 3.260,60 tỷ đồng, luỹ kế được 5.677,72 tỷ đồng, đạt 46,40% dự toán Trung ương, đạt 41,93% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn là 615,64 tỷ đồng, luỹ kế được 1.916,94 tỷ đồng, đạt 30,51% dự toán Trung ương, đạt 25,56% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 550 tỷ đồng, luỹ kế được 1.753,73 tỷ đồng, đạt 30,34% dự toán Trung ương và đạt 25,79% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 63,64 tỷ đồng, luỹ kế được 163,22 tỷ đồng, đạt 32,45% dự toán Trung ương và đạt 23,32% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp được 461,81 tỷ đồng, luỹ kế được 1.577,62 tỷ đồng, đạt 26,50% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 3/2024 được 2.589,20 tỷ đồng, luỹ kế được 3.982,74 tỷ đồng, đạt 35,21% dự toán Trung ương giao, đạt 32,10% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi xây dựng cơ bản: 2.030,09 tỷ đồng, luỹ kế là 2.620,17 tỷ đồng, đạt 43,08% dự toán Trung ương giao, đạt 38,16% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 559,11 tỷ đồng, luỹ kế là 1.361,57 tỷ đồng, đạt 26,85% dự toán Trung ương giao, đạt 25,36% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 29/02/2024, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 22.165 tỷ đồng, giảm 2,47% so với cuối năm 2023. Vốn huy động đáp ứng được 53,80% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 12.463 tỷ đồng (chiếm 56,23% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.702 tỷ đồng (chiếm 43,77% tổng huy động). Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 2,6-3,1%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 3,9-4,2%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 4,8-5,3%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 3/2024, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 22.385 tỷ đồng, giảm 1,52% so với cuối năm 2023 (tăng 1,00% so với tháng 01/2024) .
Đến ngày 29/02/2024, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 41.200 tỷ đồng, tăng trưởng 2,98% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 21.661 tỷ đồng (chiếm 52,58% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 19.539 tỷ đồng (chiếm 47,42% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay bình quân từ 8 - 12%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 3/2024, dư nợ đạt 42.000 tỷ đồng, tăng trưởng 4,98% so với cuối năm 2023.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 02/2024 là 1.098 tỷ đồng, chiếm 2,67%/tổng dư nợ; nợ xấu là 524 tỷ đồng, chiếm 1,27%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 574 tỷ đồng, chiếm 52,28%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 3/2024, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.
Dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương tính đến cuối tháng 02/2024 đạt được kết quả sau:
- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng trong nước dư nợ 3.033 tỷ đồng, tăng trưởng 7,25% so với cuối năm 2023.
- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 4.191 tỷ đồng, tăng trưởng 9,34% so với cuối năm 2023.
- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 6,21 tỷ đồng, giảm 2,05% so với cuối năm 2023.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 15,42 tỷ đồng, giảm 10,81% so với cuối năm 2023.
- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 228 tỷ đồng, giảm 0,44% so với cuối năm 2023.
- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 4.147 tỷ đồng, tăng trưởng 1,59% với cuối năm 2023.
- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 25.244 tỷ đồng, tăng trưởng 4,27% so với cuối năm 2023.
- Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 39 khách hàng, tổng dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 923 tỷ đồng, tổng giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (bao gồm gốc và lãi) là 435 tỷ đồng.
- Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.
2. Vốn đầu tư và Xây dựng
2.1. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh năm 2024 là 26.108,94 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 6.937,69 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 5.200,75 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 13.970,50 tỷ đồng.
Ước tính tháng 3/2024, vốn đầu tư thực hiện được 1.971,39 tỷ đồng, bằng 109,84% so với tháng trước[1] và bằng 114,92% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 440,68 tỷ đồng; Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 381,11 tỷ đồng; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.149,60 tỷ đồng.
Ước tính quý I/2024, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 5.650,79 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,88%, so với kịch bản tăng trưởng đạt 102,93%; đạt 21,64% so với kế hoạch năm (26.108,94 triệu đồng) và đạt 22,63% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân tỉnh năm 2024 (24.970 tỷ đồng). Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 1.230,71 tỷ đồng, bằng 137,18% so với cùng kỳ năm trước và đạt 17,74% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 1.131,87 tỷ đồng, bằng 196,37% so với cùng kỳ năm trước và đạt 21,76% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 3.288,21 tỷ đồng, bằng 91,92% so với cùng kỳ năm trước và đạt 23,54% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2024.
- Tập trung tối đa nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hoàn thiện các hạng mục công trình, hoàn thành công tác nghiệm thu, thanh toán và giải ngân vốn cho nhà thầu; khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành năm 2024.
- Triển khai thực hiện các thủ tục đầu tư đúng quy định nhằm đảm bảo thời gian giải ngân kế hoạch vốn và tiến độ thực hiện các dự án khởi công mới.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2024 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán … đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
- Cơ quan được giao nhiệm vụ lập phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư phải phối hợp chặt chẽ với địa phương nơi có đất thu hồi, bằng nhiều hình thức đẩy mạnh vận động, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về đất đai, bồi thường và hỗ trợ, tái định cư cũng như mục đích, ý nghĩa của dự án tới các đối tượng có đất bị thu hồi, trước hết là cán bộ, đảng viên, quần chúng gương mẫu nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc chấp hành chủ trương thu hồi đất của Nhà nước để kịp thời tạo quỹ đất sạch thực hiện triển khai dự án.
2.2. Xây dựng
Ước tính quý I/2024, giá trị sản xuất ngành xây dựng như sau:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 1.701,37 tỷ đồng, giảm 15,69% so với quý trước và tăng 15,84% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 2.847,35 tỷ đồng, giảm 15,66% so với quý trước và tăng 15,90% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
+ Công trình nhà ở được 1.400,02 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 49,17% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 21,16% so quý trước và tăng 8,57% so với cùng kỳ năm trước. Một số công trình nhà ở của các doanh nghiệp được chính thức khởi công xây dựng vào cuối năm 2023 hiện nay đã hoàn thành, chuẩn bị nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Vì vậy, đã làm tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng so với cùng kỳ năm trước.
+ Công trình nhà không để ở được 469,97 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,51% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 52,97% so với quý trước và tăng 6,97% so với cùng kỳ.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 907,66 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31,88% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 22,31% so với quý trước và tăng 34,90% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân các dự án công trình kỹ thuật dân dụng tăng cao là do loại công trình này là những công trình lớn, thời gian hoàn thành thường trên 12 tháng như: Đường cao tốc Cần Thơ - TP HCM, tổng mức đầu tư gói thầu 614 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 11,61% giá trị công trình; Xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 25 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 26,44% giá trị công trình; Xây dựng đường giao thông đô thị, tổng mức đầu tư gói thầu 250 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 22,37% giá trị công trình, … Ngoài ra, một số công trình khác có quy mô tương đối lớn được khởi công đầu tư xây dựng trong giai đoạn trước, hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện và dự kiến được hoàn thành trong các quý còn lại của năm 2024 sẽ tiếp tục thực hiện, làm nâng cao giá trị sản xuất xây dựng trong thời gian tới.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 69,70 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,44% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 44,01% so với quý trước và tăng 26,56% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay, giá trị xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu được thực hiện tập trung vào các hạng mục công trình nhà ở, nhà ở xã hội và các công trình nâng cấp, mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến lộ nông thôn. Riêng một số công trình có mức đầu tư lớn hầu hết được các đơn vị thầu ngoài tỉnh thi công. Do vậy, để giúp ngành xây dựng phát triển và tiếp tục nâng cao giá trị sản xuất trong thời gian tới kiến nghị các ngành chức năng, các cấp, các ngành có kế hoạch chỉ đạo tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị thi công hoàn thành các hạn mục công trình theo đúng tiến độ đề ra.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng (Tính từ ngày 16/02/2024 – 15/03/2024), toàn tỉnh có 52 hồ sơ đăng ký thành lập mới (trong đó gồm 37 doanh nghiệp và 15 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn đăng ký là 269,40 tỷ đồng; có 13 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 7 doanh nghiệp, tổng vốn là 15 tỷ đồng); có 15 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 08 doanh nghiệp, tổng vốn là 12,05 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 07 đơn vị trực thuộc).
Lũy kế từ đầu năm đến nay, có 190 hồ sơ đăng ký thành lập mới (trong đó gồm 138 doanh nghiệp và 52 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn 748,80 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 2% về số lượng doanh nghiệp và tăng 0,4% về số vốn điều lệ); có 159 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 125 doanh nghiệp, tổng vốn 79 tỷ đồng), không có doanh nghiệp đăng ký hoạt động trước hạn; có 121 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 24 doanh nghiệp, tổng vốn là 106,15 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 97 đơn vị trực thuộc), so cùng kỳ tăng gấp 10 lần về số doanh nghiệp và tăng gấp 12 lần về vốn điều lệ.
Xu hướng sản xuất kinh doanh: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 267 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 63,41% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất quý tiếp theo tăng hơn so với quý hiện tại, có trên 26,83% doanh nghiệp đánh giá quý tiếp theo không có biến động nhiều so với quý hiện tại và còn lại 9,76% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất quý tiếp theo gặp khó khăn, sản lượng không tăng so với quý hiện tại. Vì vậy, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đã có dấu hiệu phục hồi trở lại và giữ được mức tăng trưởng ổn định so với cùng kỳ.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Hiện tại ngành Nông nghiệp tiếp tục tập trung chỉ đạo theo dõi tình hình thu hoạch vụ lúa Đông xuân 2023 -2024, xuống giống vụ lúa Hè thu và các loại cây trồng khác phấn đấu đạt các chỉ tiêu theo kế hoạch đã phân bổ. Thường xuyên kiểm tra thăm đồng, theo dõi phát hiện sinh vật gây hại trên các loại cây trồng khuyến cáo nông dân các biện pháp quản lý và phòng trừ; theo dõi cập nhật tình hình thời tiết thủy văn, hạn mặn để có biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn người dân phòng tránh kịp thời. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Cụ thể kết quả từng lĩnh vực như sau:
4.1. Nông nghiệp
4.1.1. Trồng trọt
Vụ lúa Đông xuân 2023-2024, tỉnh đã xuống giống dứt điểm được 74.392,2 ha, đạt 100,26% kế hoạch tỉnh (74.200 ha), giảm 1,47% so với cùng kỳ (bằng 1.109 ha). Các giống lúa sử dụng chủ yếu là RVT chiếm 14,19%, Đài Thơm 8 chiếm 55,82%, OM18 chiếm 16,26%, OM5451 chiếm 6,65%, ST24 chiếm 2,65%, còn lại chiếm 4,43% gồm các giống khác như: ST25, IR50404, Jasmine85,… Hiện vụ lúa Đông xuân năm 2024 đang trong giai đoạn thu hoạch rộ, theo đó đã thu hoạch được 37.454,6 ha, tăng 8,1% (bằng 2.805,63 ha) so cùng kỳ. Năng suất ước đạt 77,54 tạ/ha, tăng 0,01% (bằng 0,01 tạ/ha) so với cùng kỳ, đạt 103,39% so với kịch bản tăng trưởng tỉnh (75 tạ/ha). Sản lượng ước đạt 290.423 tấn, tăng 8,11%[2] (bằng 21.789 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Giá bán lúa tươi bán tại ruộng của một số giống chủ yếu trên địa bàn tỉnh như sau: lúa OM5451 bán với giá 7.500-7.700 đồng/kg, lúa OM18, Đài thơm 8 bán với giá 7.800-8.000 đồng/kg, lúa RVT bán với giá 8.000-8.200 đồng/kg. Nhìn chung, giá lúa trong vụ Đông xuân 2023-2024 cao hơn vụ Đông xuân 2022-2023 trung bình từ 1.000-1.200 đồng/kg.
Bên cạnh việc tranh thủ thu hoạch diện tích lúa Đông xuân còn lại, do giá lúa còn cao nên nông dân đang tích cực chuẩn bị gieo sạ cho vụ lúa Hè thu. Dự kiến lịch thời vụ gieo sạ được chia làm 2 đợt, đối với các khu vực lúa Đông xuân thu hoạch sớm, có thể xuống giống nhưng phải đảm bảo đủ thời gian cách ly trên 3 tuần để rơm rạ phân hủy nhằm hạn chế ngộ độc hữu cơ cho lúa vụ Hè thu. Tính đến thời điểm hiện tại tỉnh đã xuống giống được 4.587 ha, tăng 1,37% (bằng 62 ha), tập trung ở các huyện như: Châu Thành A, Vị Thủy, Long Mỹ. Lúa đang trong giai đoạn mạ, sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18, Đài thơm 8, OM5451, …
Mía niên vụ 2023-2024: Diện tích gieo trồng được 3.221,2 ha, đạt 102,26% kế hoạch tỉnh (3.150 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 1,96% so với cùng kỳ (bằng 64,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 961,85 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 11,28% (bằng 97,5 ha); năng suất đạt 59,49 tạ/ha, giảm 5,29% (bằng 3,32 tạ/ha); sản lượng quý I/2024 ước được 4.390,38 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 6,43% (bằng 301,57 tấn). Nguyên nhân do thời tiết không thuận lợi.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 8.949,63 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,45% (bằng 289,79 ha); Ước sản lượng quý I/2024 được 92.985,19 tấn, tăng 15,62% (bằng 12.558,69 tấn). Nguyên nhân tăng so cùng kỳ do người dân tăng diện tích gieo trồng và thay đổi lịch thời vụ.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của Tỉnh tính đến trung tuần tháng 3/2024 so với cùng kỳ như sau:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.215,75 ha, tăng 3,25% (bằng 101,2 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 8.473,54 tấn, tăng 8,86% (bằng 690 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so cùng kỳ là do hộ chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi hơn, diện tích thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.697 ha, tăng 1,63% (bằng 27,16 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 4.215,18 tấn, tăng 4,19% (bằng 169,43 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 10.051,83 ha, tăng 1,14% (bằng 113,23 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 14.329,15 tấn, tăng 12,65% (bằng 1.609,49 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích đã đến kỳ thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.879,25 ha, tăng 3,24% (bằng 90,35 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 2.812,83 tấn, tăng 3,07% (bằng 83,7 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 713,36 ha, giảm 0,93% (bằng 6,68 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 738,35 tấn, tăng 3,54% (bằng 25,27 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện.
4.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt, … Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến tháng 3/2024, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.234 con, giảm 7,91% (bằng 106 con) so với cùng kỳ, đạt 100,33% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (Theo Kế hoạch số 13/KH-UBND ngày 19/01/2024 của UBND tỉnh Hậu Giang). Nguyên nhân chủ yếu là do, đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp. Đàn bò ước được 4.153 con, tăng 9,84% (bằng 372 con) so với cùng kỳ, đạt 102,54% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.678 con, tăng 1,42% (bằng 2.042 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 103.864 con, tăng 1,42% (bằng 1.452 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.488,99 nghìn con, tăng 2,32% (bằng 101,64 nghìn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.830,37 nghìn con, tăng 6,7% (bằng 114,97 nghìn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
4.2. Lâm nghiệp
Hiện nay, tỉnh tăng cường quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát động phong trào trồng rừng theo quy hoạch và kế hoạch hằng năm. Phát triển kinh tế rừng, có cơ chế đặc thù để bảo đảm vừa làm tốt công tác bảo vệ, phát triển rừng, vừa tạo sinh kế, nâng cao thu nhập, đời sống của người dân sống ở khu vực có rừng. Vì vậy, từ đầu năm đến nay diện tích rừng được bảo vệ an toàn, không xảy ra trường hợp cháy rừng trên địa bàn tỉnh.
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng 3/2024 chủ yếu tập trung vào công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, không có diện tích rừng trồng mới tập trung. Sản lượng gỗ khai thác khoảng 795,8 m3, tăng 4,83%. Sản lượng củi khai thác ước được 20.912,28 ste, tăng 1,16% so với cùng kỳ.
Ước thực hiện quý I/2024, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 253,1 nghìn cây, so với cùng kỳ tăng 0,32% (bằng 0,8 nghìn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 3.454,8 m3, tăng 4,48% (bằng 148,2 m3). Sản lượng củi khai thác ước được 32.747,5 ste, tăng 1,22% (bằng 395,9 ste) so với cùng kỳ.
4.3. Thủy sản
Trong tháng 3/2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 71,74 ha, tăng 1,92% (bằng 1,35 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 3 tháng đầu năm 2024 ước tính nuôi được 2.080,18 ha, tăng 0,02% (bằng 0,4 ha) so với cùng kỳ năm trước; so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (1.018 ha) bằng 204,34%[3]. Cụ thể: Diện tích nuôi cá 1.935,76 ha, giảm 0,11% (bằng 2,2 ha), trong đó diện tích nuôi cá thát lát được 53,68 ha, tăng 2,13% (bằng 1,12 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm 99,75 ha, tăng 2,26% (bằng 2,2 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (nuôi tôm sú đang phát triển); diện tích nuôi thủy sản khác 44,67 ha, tăng 0,90% (bằng 0,4 ha); Thể tích nuôi lươn được 5.073 m3, tăng 3,72% (bằng 182 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 3/2024, tổng sản lượng thủy sản được 8.155,03 tấn, tăng 14,14% so với cùng kỳ. Tính chung 3 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước được 19.653,38 tấn, tăng 7,01% (bằng 1.287,04 tấn) so với cùng kỳ; so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (20.991 ha) bằng 93,63%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Cụ thể như sau:
- Sản lượng thủy sản khai thác ước được 783,46 tấn, tăng 6,83% (bằng 50,09 tấn) so cùng kỳ, do hộ khai thác nội địa từ khai thác thủy sản khác (lươn, ếch…) đang có chiều hướng có lợi nên tăng mạnh.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước được 18.869,92 tấn, tăng 7,01% (bằng 1.236,95 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 274,86 tấn, tăng 10,61% (bằng 26,37 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 156,98 tấn, tăng 4,42% (bằng 6,65 tấn) so với cùng kỳ. Hai sản phẩm này thời gian qua đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
5. Tình hình sản xuất công nghiệp
Ước thực hiện tháng 3/2024, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.127,21 tỷ đồng, tăng 19,07% so với tháng trước và tăng 8,45% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành, được 5.713,61 tỷ đồng, tăng 20,65% so với tháng trước và tăng 12,07% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng là do chính sách nhà nước khuyến khích “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và chương trình đưa hàng Việt về nông thôn đã phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở cá thể công nghiệp và doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tiêu thụ nội địa tăng sản lượng sản xuất để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, tăng một phần là do các chính sách ưu đãi thuế, chính sách giải quyết các thủ tục hành chính tinh gọn của các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền và quan trọng nhất là dự án các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh Hậu Giang đang trong giai đoạn đầu tư - xây dựng, nên một số doanh nghiệp đầu tư mở rộng quy mô nhà máy. Cụ thể như: Công ty Cổ Phần Thủy Sản Minh Phú Hậu Giang mới xây dựng hoàn thành và đưa vào sử dụng một phân xưởng sản xuất tôm tẩm bột với quy mô trên 500 lao động; Công ty TNHH Number One Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất đường RE, với sản lượng dự tính tháng 3 được trên 4 ngàn tấn, Công ty TNHH MTV Masan HG đã đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất sữa tươi có đường. các sản phẩm trên đã đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh trên 110 tỷ đồng/tháng và dự tính đóng góp cả năm 2024 trên 1.000 tỷ đồng. Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện quý I/2024, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010 được 8.907,11 tỷ đồng, tăng 11,06% so với cùng kỳ năm trước, đạt 100,64% so với kịch bản tăng trưởng quý I/2024 và đạt 20,96% so với kịch bản tăng trưởng cả năm 2024 của tỉnh đã đề ra; tính theo giá hiện hành được 15.952,24 tỷ đồng, tăng 12,48% so với cùng kỳ năm trước, đạt 102,65% so với kịch bản tăng trưởng quý I/2024 và đạt 21,41% so với kịch bản tăng trưởng cả năm 2024 của tỉnh đã đề ra.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 361 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể đang hoạt động sản xuất công nghiệp. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chủ lực của tỉnh trong những năm vừa qua, trong 3 tháng đầu năm 2024, hoạt động sản xuất ngành công nghiệp có xu hướng tăng trở lại sau giai đoạn suy thoái kinh tế vào đầu năm 2023 vừa qua. Cụ thể từng ngành như sau:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 267 doanh nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất trên 12.161,42 tỷ đồng (theo giá hiện hành), chiếm tỷ trọng 74,1% trong toàn ngành và tăng 11,66% so với cùng kỳ năm trước. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chủ lực của tỉnh trong những năm vừa qua, hoạt động sản xuất ngành công nghiệp có xu hướng tăng trở lại, thậm chí tăng trưởng cao, là do trong 3 tháng đầu năm 2024 một số doanh nghiệp đã ký được các hợp đồng dài hạn, có giá trị lớn, nên một số doanh nghiệp mở rộng quy mô nhà máy, góp phần làm giá trị sản xuất một số ngành tăng so với cùng kỳ như: Chế biến thực phẩm (đóng góp giá trị sản xuất theo giá hiện hành được 4.897,41 tỷ đồng, tăng 11,02%); sản xuất trang phục (đóng góp giá trị sản xuất theo giá hiện hành được 209,88 tỷ đồng, tăng 29,03%); sản xuất giày dép và các bộ phận của giày dép (đóng góp giá trị sản xuất theo giá hiện hành được 1.616,4 tỷ đồng, tăng 46,74%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (đóng góp giá trị sản xuất theo giá hiện hành được 544,52 tỷ đồng, tăng 31,43%); … Vì vậy, đã làm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí có 85 doanh nghiệp và hợp tác xã đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất trên 3.674,94 tỷ đồng (theo giá hiện hành), chiếm tỷ trọng 25,20% trong toàn ngành và tăng 15,12% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, có 83 doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất điện năng lượng mặt trời và sản xuất nước đá, giá trị sản xuất 112,05 tỷ đồng (theo giá hiện hành), chiếm tỷ trọng 3,05% trong ngành sản xuất và phân phối điện và tăng 11,91% so với cùng kỳ. Riêng, Điện lực Hậu Giang và Chi nhánh Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí sông Hậu 1, tạo ra giá trị sản xuất trên 3.562,88 tỷ đồng (theo giá hiện hành), chiếm tỷ trọng trên 96,95% trong ngành sản xuất, phân phối điện và tăng 15,23% so với cùng kỳ.
- Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải có 9 doanh nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất 115,87 tỷ đồng, tăng 18,01% so với cùng kỳ, Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân được liên tục và ổn định, nhất là trong các đợt cao điểm nắng nóng và xâm nhập mặn đang diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay. Vì vậy, giá trị sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 3 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra như: Công ty TNHH Thức ăn Tôm Xanh Minh Phú (sản xuất thức ăn chăn nuôi); Công ty CP Tập đoàn Masan (sản xuất mì ống, bún, gia vị các loại …), Công ty TNHH MTV Sunpro Steel (sản xuất thép),… để giá trị sản xuất công nghiệp đạt và vượt kế hoạch năm 2024 của tỉnh đã đề ra.
Đối với Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 3/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 17,26% so với tháng trước và tăng 6,64% so với cùng kỳ. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,86% so với tháng trước và tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 10,87% so với tháng trước và tăng 1,53% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 1,36% so với tháng trước và tăng 15,01% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng cao so với tháng trước là do tháng 3/2024 các hộ cá thể công nghiệp và doanh nghiệp hoạt động nhiều ngày hơn so với tháng trước (tháng 02/2024 các cơ sở công nghiệp nghỉ Tết Nguyên đán từ 6 đến 08 ngày để người lao động vui xuân đón tết).
Dự tính quý I/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 13,68% của quý I/2023 so với cùng kỳ và mức tăng 16,9% của quý I/2022 so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã hoạt động ổn định, nên ngành D không còn tăng đột biến như những năm trước, dẫn đến chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 toàn ngành tăng trưởng chậm lại so với cùng kỳ). Cụ thể từng ngành như sau:
- Ngành chế biến, chế tạo: Có trên 267 doanh nghiệp và chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,81% so với cùng kỳ (tương đương mức tăng chung của toàn ngành 8,82% và cao hơn mức tăng 8,46% của quý I/2023 so với cùng kỳ).
+ Chỉ số sản xuất ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,37% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do ngành chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản, chiếm tỷ trọng trên 36,74% về giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trong ngành chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 16,91% trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số sản xuất tăng 23,37% so với cùng kỳ (nguyên nhân là do Công ty Cổ Phần Thủy Sản Minh Phú Hậu Giang mới xây dựng hoàn thành và đưa vào hoạt động một phân xưởng sản xuất tôm tẩm bột với quy mô trên 500 lao động, nên làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thủy sản tăng rất cao so với cùng kỳ); chế biến và bảo quản rau quả tăng 12,8% so với cùng kỳ; sản xuất đường tăng rất cao so với cùng kỳ (nguyên nhân là do Công ty TNHH Number One Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất đường RE, từ cuối năm 2023 đến nay, với sản lượng dự tính tháng 3 ước được trên 4 ngàn tấn); Sản xuất mì ống, mì sợi và sản phẩm tương tư tăng 37,24% so với cùng kỳ,... Vì vậy, đã làm ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng so với cùng kỳ.
+ Chỉ số sản xuất trang phục tăng 18,16% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 178 cơ sở cá thể công nghiệp hoạt động trong ngành này và chiếm tỷ trọng trên 52,08% về giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trong ngành sản xuất trang phục, từ đầu năm đến nay các cơ sở nhận được nhiều hợp đồng gia công, lắp ráp quần áo cho các doanh nghiệp, nên giá trị sản xuất khu vực cá thể tăng trên 36,26% so với cùng kỳ. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành sản xuất trang phục tăng so với cùng kỳ.
+ Chỉ số sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 38,17% so với cùng kỳ và chiếm tỷ trọng 10,13% về giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trong toàn ngành. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 12.262 lao động, trong những tháng đầu năm công ty đã ký được nhiều hợp đồng lớn có yêu cầu chất lượng cao, nên công ty tăng sản lượng sản xuất giày thành phẩm được 4.940 nghìn đôi trong 3 tháng đầu năm 2024, tăng 38,70% so với cùng kỳ. Vì vậy, chỉ số sản xuất giày đã tăng cao so với cùng kỳ.
+ Chỉ số sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 38,72% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Hóa Nông Lúa Vàng Hậu Giang sản xuất các mặt hàng thuốc bảo vệ thực vật đã đầu tư cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, nên ngày càng khẳng định được thương hiệu tại thì trường trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung, sản lượng của doanh nghiệp tăng trên 56,50% trong 3 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất và phân phối điện: Có 85 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành này, dự tính quý I/2024 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,77% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng điện sản xuất dự tính được 1.430,35 triệu kwh, tăng 8,53% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 3.245,46 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 88,31% trong ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 20,34% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I sau 02 năm đi vào hoạt động ổn định (nên không còn tăng đột biến như các năm trước), đến nay tình hình vận hành các tổ máy được kiểm soát tốt về mặt kỹ thuật, cũng như nhu cầu cao về điện năng trong sinh hoạt của người dân, cũng như đảm bảo cung cấp đủ điện cho các doanh nghiệp được hoạt động liên tục. Vì vậy, nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã tăng sản lượng sản xuất trên 8% trong quý I/2024 với cùng kỳ.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Có 09 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành này, dự tính quý I/2024 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,88% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân được liên tục và ổn định, nhất là trong các đợt cao điểm nắng nóng và xâm nhập mặn đang diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh quý I/2024 tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh tăng 19,94%; sản lượng nước mắm sản xuất tăng 58,13%; sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 0,9%; sản lượng sản xuất bia đóng chai tăng 1,93%; sản lượng sản xuất giày dép các loại tăng 38,70%; sản lượng điện sản xuất tăng 8,53%;… Bên cạnh các sản phẩm công nghiệp tăng còn có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả giảm 0,12%; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác giảm 7,72%, nguyên nhân do các công ty chưa ký được các hợp đồng mới nên giảm sản lượng sản xuất để tiêu thụ hàng tồn kho tại doanh nghiệp.
Tình hình tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo: Tính đến thời điểm tháng 3/2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 25,09% so với tháng trước và tăng 7,51% so với cùng kỳ. Tính chung 3 tháng năm 2024 giảm 4,49% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tình hình suy thoái kinh tế thế giới đến thời điểm hiện tại đã có diễn biến tốt lên, nhưng tình hình tiêu thụ một số mặt hàng 3 tháng đầu năm 2024 chưa tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước như: Thủy hải sản xay nhỏ hoặc dạng mắm đặc giảm 34,53% so với cùng kỳ; sản xuất đường giảm 96,75% so với cùng kỳ; sản xuất bia và mạch nha ủ men bia giảm 0,8% so với cùng kỳ; quần áo bảo hộ lao động giảm 35,44% so với cùng kỳ; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 10,66% so với cùng kỳ… Vì vậy, đã làm chỉ số tiêu thụ toàn ngành giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ước tính tại thời điểm 31/3/2024, chỉ số tồn kho giảm 12,88% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: Tôm đông lạnh giảm 6,19%; sản xuất đường giảm 80,50%; sản xuất bia và mạch nha ủ men bia giảm 64,50%; sản xuất giày dép giảm 28,19%,... Như vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng, tình hình tiêu thụ giảm nhẹ, chỉ số tồn kho giảm. Cho thấy các doanh nghiệp có dấu hiệu phục hồi và sản xuất theo đơn hàng đã ký, hạn chế lượng hàng tồn kho tăng ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Riêng, các mặt hàng tiêu thụ trong nước (hàng tiêu dùng thiết yếu) đều có chỉ số sản xuất tăng là do thị trường trong nước hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ và các doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất chuẩn bị hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng dịp 30/4 và 1/5 sắp đến.
Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/3/2024, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 3,51% so với cùng kỳ. Tính chung quý I/2024 tăng 2,82% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng cao hơn mức giảm chung toàn ngành so với cùng kỳ như: Sản xuất trang phục tăng 31,23%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,63%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 9,49%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,52%,... Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động chung của toàn tỉnh trong quý I/2024 tăng nhẹ so với cùng kỳ.
6. Hoạt động thương mại, dịch vụ
6.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Ước tính tháng 3/2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.950,83 tỷ đồng, so với tháng trước chỉ bằng 98,12% nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn tăng ở mức khá 9,24%. Sau Tết nguyên đán Giáp Thìn các hoạt động giao thương buôn bán diễn ra ít sôi động hơn. Quy mô hoạt động các nhóm ngành thương mại, các loại hình dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ ăn uống đều có mức sụt giảm so với tháng trước. Đóng góp nhiều nhất vào mức tăng chung chủ yếu là hoạt động của các loại hình dịch vụ. Tổng doanh thu chung tất cả các loại hình dịch vụ tính riêng trong tháng 3/2024 có tốc độ tăng cao 21,28%, trong khi hoạt động thương mại lại có mức tăng thấp hơn chỉ đạt mức 5,28%. Cụ thể như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.587,63 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 97,50% và so với cùng kỳ tăng 5,28%. Trong tháng 3, các hoạt động bán lẻ của các cơ sở diễn ra kém sôi động hơn so với tháng trước (thời điểm diễn ra Tết Nguyên đán Giáp Thìn), hầu như các nhóm hàng thiết yếu chủ lực đều có mức doanh thu giảm. Trong đó, nhóm lương thực, thực phẩm và các vật liệu xây dựng là những nhóm hàng có mức giảm ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng chung lần lượt ở mức 3,84% và 14,96%. Mặc dù có sự sụt giảm đáng kể so với tháng trước nhưng quy mô doanh thu các nhóm hàng bán lẻ vẫn có mức tăng tương đối khá so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao và có đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng chung, so với cùng kỳ nhóm này tăng 7,32%; nhóm sản phẩm vàng và kim loại quý đóng góp tăng 25,59%; nhóm xăng dầu các loại tính chung tăng 21,56%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 615,19 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 98,52% và so với cùng kỳ năm trước tăng 20,67%. Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 26,63 tỷ đồng, so tháng trước tăng 2,68% và so với cùng kỳ tăng 52,78%; ngành ăn uống ước tính được 588,56 tỷ đồng, so tháng trước bằng 98,34% và so cùng kỳ năm trước tăng 19,53%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 748 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,87% và so với cùng kỳ năm trước tăng 21,78%. Hầu hết các ngành dịch vụ quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn đều có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các hoạt động dịch vụ chăm sóc cá nhân, làm đẹp, trang điểm, massage,… là những loại hình dịch vụ chủ yếu đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành dịch vụ. Tính chung tổng doanh thu các dịch vụ trên so với cùng kỳ đã tăng hơn 71%, nguyên nhân do từ những tháng cuối năm 2023 các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực này có sự tăng nhanh về quy mô.
Ước tính quý I/2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 14.889,80 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,92%, so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh đạt 99,89%. Nhìn chung tính đến hết thời điểm quý I/2024 hoạt động toàn ngành thương mại dịch vụ vẫn ổn định, cơ cấu các nhóm ngành hàng đóng góp chung vào khu vực III vẫn không có nhiều thay đổi so với năm 2023. Doanh thu bán lẻ vẫn là ngành chủ lực đóng góp nhiều cho sự tăng trưởng chiếm tỷ trọng hơn 70% tổng doanh thu, còn lại là các ngành dịch vụ (bao gồm dịch vụ lưu trú và ăn uống) chiếm gần 30%. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 10.840,20 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,40%. Nhìn chung, tình hình hoạt động thị trường bán lẻ trong quý I/2024 có mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Các cơ sở cá thể và doanh nghiệp tiếp tục hoạt động ổn định, có sự gia tăng về quy mô so với cùng kỳ năm trước. Tuy trong những tháng đầu năm một số cơ sở ngừng hoạt động, giải thể và chuyển đổi loại hình kinh doanh nhưng do quy mô nhỏ không ảnh hưởng nhiều đến tổng giá trị chung.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 1.842,31 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,10%. Quy mô doanh thu ăn uống tính chung quý I/2024 vẫn duy trì ổn định. Ăn uống vẫn là ngành dịch vụ chủ yếu chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng doanh thu. Cụ thể:
+ Ngành lưu trú, ước tính được 78,28 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 49,78%.
+ Ngành ăn uống, ước tính được 1.764,03 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 20,08%. Nguyên nhân tăng cao do các cơ sở hoạt động bán điểm tâm ăn sáng, giải khát vẫn giữ nguyên giá bán sau khi đã tăng trong dịp Tết Nguyên dán, so với thời điểm cùng kỳ năm trước giá bán hiện đã tăng khoảng 15%.
- Doanh thu ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 2.207,29 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 17,80%. Các ngành dịch vụ tiêu dùng (trừ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong đóng góp vào tốc độ tăng chung của cả khu vực thương mại và dịch vụ. Tỷ trọng toàn ngành dịch vụ trong tổng quy mô doanh thu khu vực III không ngừng tăng lên (quý I/2023 chiếm tỷ trọng 14,08% tăng 1,61% so cùng kỳ năm 2022; quý I/2024 đã chiếm 14,82% tăng thêm 0,74%).
Nhìn lại qua 3 tháng đầu năm 2024, các hoạt động kinh doanh của các ngành dịch vụ tiêu dùng có xu hướng phát triển khả quan, giá trị doanh thu của các ngành không ngừng tăng và hầu hết đều có tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Trong đó, ngành dịch vụ chuyên phục vụ cá nhân và gia đình có tốc độ tăng cao nhất, tăng hơn 79%; thấp nhất là hoạt động của các ngành dịch vụ vui chơi giải trí chỉ tăng hơn 6%.
6.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 3/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 66.983 nghìn USD, so với tháng trước bằng 80,04% và so với cùng kỳ năm trước bằng 71,45%. Ước tính tháng 3/2024, các doanh nghiệp chưa ký kết được nhiều hợp đồng xuất khẩu giá trị lớn so với tháng trước nên giá trị xuất khẩu giảm 17,15%. Bên cạnh đó, Các doanh nghiệp đã nhập khẩu lượng lớn nguyên liệu cho hoạt động sản xuất trong tháng 02 nên sang tháng 3 các doanh nghiệp giảm nhập khẩu lại (nhập khẩu giảm 27,87%) làm cho tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giảm so với tháng trước. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 51.131 nghìn USD, so với tháng trước bằng 82,85% và so với cùng kỳ năm trước bằng 87,07%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 15.852 nghìn USD, so với tháng trước bằng 72,13% và so với cùng kỳ năm trước bằng 45,27%.
Ước thực hiện quý I/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 245.426 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 97,02%, so kế hoạch năm đạt 19,36% và so kịch bản tăng trưởng đạt 85,18%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 176.061 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 120,39%, so với kế hoạch năm đạt 21,84% và so kịch bản tăng trưởng đạt 104,42%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 58.599 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 60,37%, so với kế hoạch năm đạt 14,02% và so kịch bản tăng trưởng đạt 53,66%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 92 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 90,20%, so với kế hoạch năm đạt 9,20% và so kịch bản tăng trưởng đạt 28,31%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 10.674 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 111,77%, so với kế hoạch năm đạt 24,82% và so kịch bản tăng trưởng đạt 106,96%.
Trong quý I/2024, các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn đã có quan hệ giao thương với khoảng 59 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các khu vực có giá trị xuất khẩu lớn nhất là các quốc gia Tây Âu (chủ yếu là Hà Lan và Đức), tiếp đến là Đông Nam Á (Singapore, Campuchia, Indonesia, Thái Lan); Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada); Đông Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc là chủ yếu).
Về cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu: Xuất khẩu chủ lực vẫn là các nhóm hàng dệt may, giày da; thủy sản; các sản phẩm giấy và một số mặt hàng khác. Trong quý I/2024, giá trị xuất khẩu đã tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm trước (tăng 20,39%).
Về nhập khẩu, các mặt hàng nhập chủ yếu là các nguyên liệu phục vụ sản xuất các ngành công nghiệp giấy, dệt may da giày; hóa chất; nguyên liệu thức ăn gia súc và một số nguyên liệu khác. Giá trị nhập khẩu quý I/2024 giảm 39,63% so với cùng kỳ năm 2023.
Tóm lại, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu trong quý I/2024 giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước nhưng mức giảm không đáng kể (giảm 2,98%). Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp, nhu cầu tiêu dùng chưa cao, hàng rào bảo hộ gia tăng, nhiều quốc gia tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, nên tình hình xuất nhập khẩu những tháng đầu năm còn gặp khó khăn. Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đơn hàng nước ngoài giảm, thị trường trong nước sức mua không lớn, chi phí đầu vào vẫn ở mức cao, không dễ dàng trong việc tiếp cận tín dụng,… Để giảm bớt những khó khăn nêu trên cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đẩy mạnh đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới; đặc biệt là các Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu, thông qua tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, các cơ hội và cách thức tận dụng cơ hội từ các Hiệp định. Các doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh hoạt động sản xuất hàng hóa tìm kiếm thị trường tiêu thụ để có thể đảm bảo cung ứng cho các đơn hàng xuất khẩu trong thời gian tới.
6.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Ước tính tháng 3/2024, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 154,69 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 99,82% và so với cùng kỳ năm trước tăng 16,86%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 90,70 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 97,58% và so với cùng kỳ năm trước bằng 132,84%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 32,92 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,47% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,52%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát thực hiện được 31,07 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,87% và so với cùng kỳ năm trước bằng 96,22%.
Nhìn chung, cơ cấu hoạt động của ngành vận tải hiện vẫn ổn định và không có nhiều thay đổi so với những năm trước. Đường bộ vẫn là loại hình vận chuyển quan trọng và đóng góp chủ yếu cho sự tăng trưởng, tính hết quý I/2024 tổng doanh thu đường bộ ước thực hiện được 271,60 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng gần 60% trong toàn ngành. Các loại hình hoạt động khác còn lại bao gồm vận tải đường thủy và các dịch vụ kho bãi, logistic chiếm chưa tới 40%. Trong đó, giá trị doanh thu vận chuyển đường thủy được tạo ra ngày càng có xu hướng giảm dần và được thay thế bởi vận tải đường bộ do hệ thống đường bộ phát triển và vì sự thuận tiện nhanh chóng.
Ước thực hiện quý I/2024, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 460,24 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 117,31%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 271,60 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 127,70%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 95,80 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 102,95%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát được 92,84 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,21%. Ngành dịch vụ vận tải với tốc độ phát triển nhanh trong các năm đã không ngừng có sự gia tăng về doanh thu. Với chủ trương thu hút đầu tư, chú trọng phát triển Hậu Giang trở thành trung tâm logistic trong tương lai. Số lượng doanh nghiệp mới tham gia hoạt động vào ngành trong năm đã không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng đã góp phần làm tăng quy mô doanh thu chung của toàn ngành dịch vụ.
6.3.1 Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 3/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 471,80 nghìn tấn hàng hóa các loại (79.630,48 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,91% (101,71%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,30% (92,39%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 116,03 nghìn tấn (18.258,45 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,19% (101,04%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 100,65% (97,15%).
- Đường sông thực hiện được 355,77 nghìn tấn (61.372,04 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 106,18% (101,91%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 91,13% (91,06%).
Ước thực hiện quý I/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 1.434,28 nghìn tấn hàng hóa các loại (242.952,57 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 96,33% (108,70%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 356,34 nghìn tấn (56.076,87 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 100,57% (99,56%).
- Đường sông thực hiện được 1.077,94 nghìn tấn (186.875,71 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 95,01% (111,79%).
6.3.2 Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 3/2024, toàn tỉnh thực hiện được 2.492,93 nghìn lượt hành khách (57.946,87 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 98,75% (94,40%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 102,22% (126,14%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 236,58 nghìn lượt hành khách (50.845,60 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 93,44% (93,86%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 125,69% (129,40%).
- Đường sông vận chuyển được 2.256,35 nghìn lượt hành khách (7.101,27 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 99,35% (98,42%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 100,26% (106,86%).
Ước thực hiện quý I/2024, toàn tỉnh thực hiện được 7.506,27 nghìn lượt hành khách (168.377,18 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 97,48% (116,51%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 696,72 nghìn lượt hành khách (147.030,24 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 119,60% (119,23%).
- Đường sông vận chuyển được 6.809,55 nghìn lượt hành khách (21.346,94 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 95,67% (100,69%).
7. Các vấn đề về xã hội
7.1. Giáo dục
Mạng lưới trường học: Toàn ngành có 318 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 88 trường (có 05 trường tư thục); tiểu học có 145 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh; có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Quy mô học sinh năm học 2023-2024: Huy động học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông là 156.190/158.100, đạt 98,79%, cụ thể như sau:
- Giáo dục Mầm non:
+ Nhà trẻ: 2.905/2.900, đạt tỉ lệ 100,17%.
+ Mẫu giáo: 24.715/24.700, đạt tỉ lệ 100,06%.
- Giáo dục phổ thông:
+ Tiểu học: 62.281/65.500 đạt tỉ lệ 95,09%.
+ THCS: 45.600/45.550, đạt tỉ lệ 100,11%.
+ THPT: 20.689/19.450, đạt tỉ lệ 106,37%.
Trong tháng, toàn Ngành tập trung vào các công tác chuyên môn sau:
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện việc lựa chọn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 cũng như công tác quản lý hồ sơ trong năm học 2024-2025 và những năm tiếp theo.
- Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực xây dựng đề kiểm tra đối với môn Toán, Tiếng Việt cấp tiểu học.
- Triển khai thực hiện chương trình giáo dục dinh dưỡng và trao tặng sản phẩm Sữa Nestlé cho học sinh tiểu học.
- Tổ chức Hội thảo giới thiệu sách giáo khoa môn Toán lớp 9, 12 (Bộ cùng khám phá - NXB Đại học Huế) theo chương trình giáo dục phổ thông 2018.
- Lên kế hoạch tổ chức Hội thi “Viết chữ đẹp” cấp tiểu học năm học 2023-2024.
- Tổ chức thi học sinh giỏi cấp tỉnh các môn văn hóa THCS năm học 2023 - 2024.
- Phát động Cuộc thi "Vẽ tranh của thiếu niên, nhi đồng về Chiến thắng Điện Biên Phủ và hình ảnh Điện Biên Phủ hôm nay", Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 53 (năm 2024), Giải chạy học sinh, sinh viên “S-Race 2024”.
7.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền và tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, công tác cải cách hành chính,... Kết quả: in và lắp mới 3.042m2 pano, 3.000 cờ các loại, 221 băng rol. Thực hiện các mẫu maket pa nô, băng rol, cờ phướn tuyên truyền và tổ chức các hoạt động hưởng ứng “Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024). Các Đội tuyên truyền lưu động phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương với 61 buổi, phục vụ 36.200 lượt người xem; 06 buổi chiếu phim, 61 lượt phóng thanh cổ động.
Hoạt động thư viện: Phối hợp Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh huyện Châu Thành phục vụ sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện tại 06 điểm trường Tiểu học, THCS và THPT trên địa bàn huyện Châu Thành, thu hút 3.839 lượt học sinh tham gia, đọc sách. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện. Trong tháng 3/2024 phục vụ 15.220 lượt người đến tham quan, truy cập tra cứu và đọc sách với 30.440 lượt sách.
Hoạt động Bảo tàng: Triển lãm hình ảnh 05 cuộc phục vụ Lễ giao nhận quân năm 2024; Lễ công bố xã Hỏa Tiến đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; … với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng tỉnh Hậu Giang năm 2023; Bản đồ và tư liệu Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý;… Tiếp tục thực hiện đăng video 14 di tích: Chiến thắng Chương Thiện thành phố Vị Thanh, Chiến thắng Chương Thiện - Long Mỹ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Tiểu đoàn Tây Đô, Đền thờ Bác Hồ, Chiến thắng Cái Sình, Chiến thắng Tầm Vu; Chùa Phổ Minh, phường 4, TP. Vị Thanh; Trận chiến pháo binh Vịnh Chèo 1974; Chiến thắng Chày Đạp,… để truyền tải nội dung, hình ảnh các di tích trên kênh Youtube nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 17.256 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2024; cho phép ngày tổ chức giải Marathon quốc tế “Mekong Delta Marathon” tỉnh Hậu Giang năm 2024. Cử vận động viên môn Kickboxing tham gia vòng loại Olympic môn Boxing lần thứ I năm 2024.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
7.3.1. Tình hình lao động
Trong quý I/2024, tình hình lao động - việc làm trên địa bàn Tỉnh cũng có những chuyển biến tích cực do nền kinh tế đang từng bước phục hồi, tuy đã đạt được những kết quả đáng kể về giải quyết việc làm nhưng việc phân bổ và sử dụng nguồn lao động chưa thật sự hiệu quả, lao động thất nghiệp, lao động thiếu việc làm vẫn còn khá nhiều, yêu cầu đặt ra phải làm tốt công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động.
Lực lượng lao động và thất nghiệp: Trong quý, lực lượng lao động (LLLĐ), bao gồm những người đang làm việc và thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên theo khung khái niệm mới (ILCS19) thay thế cho khung khái niệm cũ (ILCS13) trên địa bàn toàn Tỉnh ước tính có 571.575 người (chiếm khoảng 78,45% dân số toàn Tỉnh). So với quý IV/2023, lực lượng lao động giảm 1.054 người, nguyên nhân do người lao động tìm việc, bắt đầu công việc mới hoặc mất/hết việc, không tìm được việc đã làm ảnh hưởng giảm lao động của Hậu Giang. Trong quý, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh đã tạo điều kiện cho Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Hậu Giang, tổ chức được nhiều phiên giao dịch tư vấn, giới thiệu việc làm mới cho số người lao động đang nghỉ giãn việc, lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp và Trung tâm cũng thường xuyên kết nối với các doanh nghiệp khi có nhu cầu tuyển dụng để giới thiệu việc làm phù hợp cho người lao động. Trong quý I/2024, có 1.104 người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trong đó, nộp hồ sơ trực tuyến 1.041 hồ sơ, đạt 94,77%. Tham mưu Sở Lao động Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 1.418 lao động với tổng số tiền chi trợ cấp 24.480,62 triệu đồng.
Lao động có việc làm: Trong quý, toàn tỉnh ước có 449.003 lao động có việc làm. Trong đó, lao động có việc làm trong nhóm ngành nông - lâm - thủy sản là 275.573 người, chiếm tỷ lệ 61,37%, ngành công nghiệp - xây dựng là 65.212 người, chiếm tỷ lệ 14,53%, nhóm các ngành dịch vụ là 108.218 người, chiếm tỷ lệ 24,10%. Trong quý, lao động hoạt động trong nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và nhóm ngành dịch vụ chiếm tỷ lệ cao, lao động trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ thấp.
Hiện tại, Hậu Giang đang đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên quy mô và cơ cấu lao động có chuyển dịch theo hướng giảm dần quy mô và cơ cấu lao động thuộc khu vực I, tăng dần quy mô và cơ cấu lao động thuộc khu vực II, III. Nhờ vào chính sách thu hút đầu tư của Tỉnh, ngày càng có nhiều công ty, xí nghiệp, doanh nghiệp,... có nhu cầu sử dụng nguồn lao động lớn trên địa bàn. Điều này, đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, mặt khác đó là nguyên nhân chuyển dịch cơ cấu lao động trong toàn xã hội. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, UBND tỉnh các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi và kêu gọi các nhà đầu tư đến đầu tư tại tỉnh Hậu Giang.
Trong thời gian tới, để người lao động tại địa phương có việc làm và thu nhập ổn định hơn các cấp, các ngành cần tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trong khâu tiêu thụ sản phẩm, nhất là các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm công nghiệp chế biến thủy sản tôm, cá,...; Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề cũng là một trong những yếu tố quan trọng để mở ra nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm ổn định. Vì vậy, các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh cũng cần nghiên cứu đổi mới hình thức đào tạo cho phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, nhu cầu của doanh nghiệp và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
7.3.2. Tình hình đời sống dân cư và giải quyết việc làm
Quý I/2024 là gian diễn ra các ngày lễ, tết quan trọng của đất nước nói chung và Hậu Giang nói riêng như: Tết dương lịch, Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024, ngoài ra Hậu Giang còn tổ chức lễ kỷ niệm 20 năm thành lập tỉnh Hậu Giang. Vì vậy, ngay từ đầu năm Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân đã chỉ đạo các cấp, các ngành vận động tối đa nguồn lực quan tâm, chăm lo hỗ trợ người dân vui xuân đón tết ấm no hạnh phúc. Kết quả đạt được cụ thể như sau:
- Công tác chăm lo Tết Nguyên đán cho người dân: Thăm và tặng quà Tết Nguyên đán cho người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, công nhân, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên trên địa bàn tỉnh với tổng số tiền là 111.919,33 triệu đồng, giảm 703,35 triệu đồng so với Tết Nguyên đán năm 2023, số tiền giảm chủ yếu từ nguồn vận động (số tiền vận động năm 2024 là 71.860,71 triệu đồng, năm 2023 là 74.247,54 triệu đồng, giảm 2.386,83 triệu đồng).
- Tình hình tiền lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp dịp Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán năm 2024, mức thưởng bình quân là 8,4 triệu đồng, giảm 3,49 triệu đồng so với mức thưởng bình quân Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 (mức thưởng bình quân năm 2003 là 11,89 triệu đồng).
- Tình hình đời sống dân cư nông thôn: Trong quý I/2024 có thể nói thời tiết khá tốt và thuận lợi, bà con nông dân ai cũng được mùa lúa Đông xuân, nông dân phấn khởi, đời sống dân cư nông thôn cải thiện hơn so với cùng kỳ.
- Tình hình giải quyết việc làm: Toàn tỉnh giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 5.503 lao động, đạt 36,69% kế hoạch năm, tăng 27,95% so với cùng kỳ.
7.3.3. An sinh xã hội
Trong quý, tỉnh đã hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng với tổng số tiền là 61.995,16 triệu đồng. Trong đó, hỗ trợ trong dịp Tết Nguyên đán là 26.376 triệu đồng, giảm khoảng 11,58% so với Tết nguyên đán năm 2023, chủ yếu giảm từ nguồn vận động.
Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại các chương 2,3,4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 88.767,80 triệu đồng, so với cùng kỳ giảm 2.679,34 triệu đồng (giảm khoảng 2,93%). Chủ yếu giảm từ nguồn vận động hỗ trợ Tết Nguyên đán.
Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 60.096,33 triệu đồng, chủ yếu là hỗ trợ trong dịp lễ Tết Nguyên đán, so với cùng kỳ năm 2023 tăng 8.787,28 triệu đồng (tăng khoảng 17,13%). Nguyên nhân do tỉnh thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ giảm nghèo và vận động xã hội hoá.
Trong quý, không có hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác phát sinh tại địa phương.
Nhìn chung, năm 2023 khép lại với một hành trình nhiều khó khăn và chông gai với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam nói chung và Hậu Giang nói riêng. Trong bối cảnh suy giảm tổng cầu, hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và thương mại của doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng đáng kể. Vì vậy, quý I/2024 tình hình vui xuân, đón tết của người dân, đặc biệt là người lao động làm công ăn lương cũng bị ảnh hưởng đáng kể.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 17 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 09 ca so với tháng trước, cộng dồn là 61 ca, giảm 224 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 27 ca mắc mới, giảm 69 ca so với tháng trước, cộng dồn là 441 ca, tăng 352 ca so với cùng kỳ; bệnh đậu mùa khỉ có 01 ca, cộng dồn là 01 ca (ở xã Tân Thành, thành phố Ngã Bảy); bệnh viêm gan do vi rút có 23 ca mắc, cộng dồn là 23 ca, tăng 18 ca so với cùng kỳ; bệnh Viêm não Nhật Bản có 01 ca, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 930 trẻ, cộng dồn là 1.609 trẻ, đạt 15,7%. Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 874 thai phụ, cộng dồn là 1.422 thai phụ, đạt 14,1%. Tiêm Sởi - Rubella (Sởi 2) trong tháng là 1.867 trẻ, cộng dồn là 1.879 trẻ, đạt 17,7%. Tiêm mũi 3 Viêm não Nhật Bản trong tháng là 1.199 trẻ, cộng dồn là 1.274 trẻ, đạt 12%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 07 ca, cộng dồn là 25 ca (tăng 17 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.058 ca (số đang quản lý 1.108 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 616 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 60 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.039 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 508 lượt, cộng dồn là 1.861 lượt.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 3/2024: Tổng số lần khám là 133.214 lượt, cộng dồn là 417.681 lượt, đạt 27,07% kế hoạch, tăng 11,02% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 8.029 lượt, cộng dồn là 20.296 lượt, đạt 21,20% kế hoạch, tăng 7,24% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,17 ngày, tăng 0,04 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 2.439 trường hợp, giảm 32 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 3/2024, toàn tỉnh xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 04 người, bị thương 04 người. So với tháng 02/2024, số vụ giảm 10 vụ, số người chết giảm 06 người, số người bị thương giảm 07 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 03 vụ, số người chết giảm 01 người, số người bị thương tăng 03 người. Nguyên nhân do không đi đúng phần đường là 01 vụ, không quan sát là 01 vụ, chuyển hướng sai quy định là 01 vụ, nguyên nhân khác là 02 vụ, chưa rõ 03 vụ.
Trong 3 tháng đầu năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/3/2024), toàn tỉnh xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 19 người, bị thương 21 người. So cùng kỳ 2023, số vụ giảm 01 vụ, số người chết giảm 16 người, số người bị thương tăng 17 người.
7.6. Tình hình thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng, xảy ra 1 vụ sạt lở, sụt lún đất, diện tích mất đất là 500m2, ước giá trị thiệt hại là 500 triệu đồng. So với tháng trước giảm 4 vụ, ước số tiền thiệt hại giảm 208 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ sạt lỡ bằng nhau, ước giá trị thiệt hại tăng 492 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 07 điểm sạt lở; chiều dài sạt lở là 189 m; diện tích mất đất là 923,1 m2, ước thiệt hại khoảng 1.458 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phát hiện 02 vụ vi phạm môi trường, đang trình cấp trên xin ý kiến xử phạt, so với tháng trước không phát sinh số liệu, so với cùng kỳ năm trước số, vụ vi phạm bằng nhau, số vụ xử lý giảm 01 vụ, số tiền xử phạt giảm 3,50 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến nay, phát hiện 08 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 06 vụ, với tổng số tiền xử phạt là 15 triệu đồng.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính, sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Vì vậy, tính từ đầu năm đến nay không xảy ra trường hợp cháy, nổ trên địa bàn.
[1] Nguyên nhân vốn đầu tư thực hiện tăng so với tháng trước là do triển khai nhanh việc lập hồ sơ, thủ tục các dự án mới đã bố trí vốn bổ sung từ đầu năm 2024; Chủ đầu tư đẩy nhanh việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tiến độ thi công các công trình, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, các công trình, dự án tập trung thi công để tăng khối lượng thực hiện cho kịp tiến độ.
[2] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do ngay từ đầu vụ Đông xuân giá lúa tươi đã đạt mức cao, nông dân phấn khởi, chú trọng nhiều hơn trong việc bón phân cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Bên cạnh đó, nhờ tuân thủ lịch thời vụ, thời tiết thuận lợi nên vụ lúa Đông xuân năm nay đạt sản lượng cao.
[3] Nguyên nhân so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh tăng cao là do kịch bản chỉ tính phần diện tích thuỷ sản thả nuôi trong quý, nhưng theo quy định mặc dù diện tích thuỷ sản không thả nuôi trong quý I/2024 mà cho thu hoạch vào quý I/2024 thì vẫn tính là diện tích của quý I/2024.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang