Thứ hai, 00/00/2023
°

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2024 tỉnh Hậu Giang

Ngày 30/05/2024 - 15:24:00 | 373 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang 5 tháng đầu năm 2024 vẫn phát triển ổn định so với cùng kỳ, các chỉ tiêu kinh tế đều duy trì ở mức tăng trưởng khá như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,39%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,72%; doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi tăng 5,77%…. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Hiện tại ngành Nông nghiệp tiếp tục tập trung chỉ đạo tiếp tục chăm sóc bảo vệ lúa Hè thu 2024 và các loại cây trồng khác, thực hiện công tác dự tính dự báo tình hình sinh vật gây hại trên các loại cây trồng để khuyến cáo nông dân các biện pháp quản lý và phòng trừ kịp thời, hiệu quả. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản giảm so với cùng kỳ do nắng nóng kèo dài và tình hình xâm nhập mặn diễn biến phức tạp. Cụ thể như sau:

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Vụ lúa Đông xuân 2023-2024, tỉnh đã xuống giống dứt điểm được 74.392,2 ha, đạt 100,26% kế hoạch tỉnh (74.200 ha), giảm 1,47% so với cùng kỳ (bằng 1.109 ha). Các giống lúa sử dụng chủ yếu là RVT chiếm 14,19%, Đài Thơm 8 chiếm 55,82%, OM18 chiếm 16,26%, OM5451 chiếm 6,65%, ST24 chiếm 2,65%, còn lại chiếm 4,43% gồm các giống khác như: ST25, IR50404, Jasmine85, … Hiện vụ lúa Đông xuân đã thu hoạch dứt điểm. Theo đó, năng suất chính thức đạt 77,61 tạ/ha, tăng 0,1% (bằng 0,08 tạ/ha), sản lượng đạt 577.358 tấn, giảm 1,37% (bằng 8.003 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân sản lượng giảm là do diện tích gieo trồng lúa năm nay giảm 1.109 ha so với cùng kỳ (75.501,2 ha). Tuy nhiên, từ đầu vụ, giá lúa đã đạt mức cao so với cùng kỳ, nông dân phấn khởi, chú trọng nhiều hơn trong việc thăm đồng chăm sóc phân bón cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, nên vụ Đông xuân năm nay đạt năng suất.

Kết thúc vụ Đông xuân với niềm vui phấn khởi, nông dân Hậu Giang tích cực chuẩn bị gieo xạ cho vụ lúa Hè thu. Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh đã xuống giống được 67.056,2 ha, đạt 90,86% kế hoạch tỉnh (73.800 ha), giảm 4,99% (bằng 3.520,1 ha) so với cùng kỳ, tập trung ở các huyện, thị xã, thành phố. Lúa đang trong giai đoạn mạ đến làm đòng, sinh trưởng và phát triển tốt, các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18, Đài thơm 8, OM5451, … Tỉnh tiếp tục theo dõi tình hình hạn mặn để có các biện pháp phòng chống kịp thời, hiệu quả, đảm bảo năng suất và sản lượng của vụ lúa Hè thu đạt năng suất mong muốn.

Mía niên vụ 2023-2024: Diện tích gieo trồng đạt 3.216,2 ha, đạt 102,1% kế hoạch tỉnh (3.150 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 2,12% so với cùng kỳ (bằng 69,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 1.608,16 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 0,86% (bằng 13,66 ha); năng suất đạt 60,6 tạ/ha, giảm 3,52% (bằng 2,21 tạ/ha); sản lượng ước được 5.399,99 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 2,06% (bằng 108,87 tấn). Nguyên nhân sản lượng tăng do thay đổi lịch thời vụ nên diện tích thu hoạch tăng so với cùng kỳ.

Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 9.082,91 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 0,91% (bằng 83,08 ha); ước sản lượng được 128.509,11 tấn, tăng 12,99% (bằng 14.774,73 tấn). Nguyên nhân sản lượng tăng mạnh do thời tiết thuận lợi nên năng suất tăng và do chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang loại có năng suất cao.

Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của Tỉnh so với cùng kỳ như sau:

- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.215,75 ha, tăng 3,25% (bằng 101,2 ha) so với cùng kỳ, sản lượng ước được 14.363,19 tấn, tăng 8,95% (bằng 1.179,97 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so cùng kỳ là do hộ chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi hơn, diện tích thu hoạch và năng suất tăng.

- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.697 ha, tăng 1,63% (bằng 27,16 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 4.450,24 tấn, tăng 6,58% (bằng 274,86 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.

- Cây mít: Diện tích hiện có 10.051,83 ha, tăng 1,14% (bằng 113,23 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 17.810,53 tấn, tăng 13,93% (bằng 2.178,12 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích đã đến kỳ thu hoạch và năng suất tăng.

- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.879,25 ha, tăng 3,24% (bằng 90,35 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 4.608,61 tấn, tăng 3,53% (bằng 157,1 tấn) so với cùng kỳ.

- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 713,36 ha, giảm 0,93% (bằng 6,68 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước được 1.234,74 tấn, tăng 4,42% (bằng 52,27 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện, người dân ngày càng có nhiều kinh nghiệm hơn trong sản xuất.

1.1.2. Chăn nuôi

Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt … Ngoài ra còn thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến tháng 5/2024, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:

- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.219 con, giảm 5,58% (bằng 72 con) so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp. Đàn bò ước được 4.212 con, tăng 8,19% (bằng 319 con) so với cùng kỳ, do giá cả ổn định, ít xảy ra dịch bệnh, người chăn nuôi có lãi nên đầu tư nuôi thêm.

- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.890 con, tăng 1,02% (bằng 1.471 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 103.265 con, tăng 0,72% (bằng 742 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.

- Đàn gia cầm: Ước được 4.497,52 ngàn con, tăng 1,53% (bằng 67,69 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.871,35 ngàn con, tăng 6,77% (bằng 118,71 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định và ít xảy ra dịch bệnh.

1.2. Lâm nghiệp

Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động trồng cây phân tán, trồng rừng; tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng.

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung được 113,5 ha, tăng 0,62% (bằng 0,7 ha) so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 692,09 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 2,27% (bằng 15,39 ngàn cây); sản lượng gỗ khai thác khoảng 5.219,4 m3, tăng 4,1% (bằng 205,4 m3); sản lượng củi khai thác khoảng 47.890,1 ste, tăng 1,07% (bằng 506,8 ste) so với cùng kỳ.

1.3. Thủy sản

Ước tính tháng 5/2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 1.161,11 ha, giảm 22,51% (bằng 337,31 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do năm nay nuôi trong ruộng lúa muộn hơn vì nắng nóng kéo dài, thiếu nước ra vào ruộng, tình hình xâm nhập mặn diễn biến phức tạp hơn so cùng kỳ. Ước tính 5 tháng năm 2024, diện tích nuôi thủy sản được 3.319,36 ha, giảm 9,18% (bằng 335,6 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 3.146,48 ha, giảm 10,15% (bằng 355,62 ha), trong đó diện tích nuôi cá thát lát được 79,65 ha, tăng 40,4% (bằng 22,92 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm 116,72 ha, tăng 19,65% (bằng 19,17 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (thêm mô hình nuôi tôm càng xanh trong đê ngăn mặn đang phát triển); diện tích nuôi thủy sản khác được 56,16 ha, tăng 1,54% (bằng 0,85 ha); thể tích nuôi lươn được 6.435 m3, tăng 3,92% (bằng 243 m3) so cùng kỳ.

Ước tính tháng 5/2024, tổng sản lượng thủy sản được 3.099,89 tấn, tăng 21,37% (bằng 545,81 tấn) so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản 5 tháng đầu năm 2024 ước được 29.439,48 tấn, tăng 9,77% (bằng 2.619,97 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân, sản lượng cá thát lát tăng mạnh so cùng kỳ, các loại cá khác ngoài cá tra tăng 16,6% tương đương 1.918,38 tấn. Cụ thể như sau:

- Sản lượng thủy sản khai thác ước được 1.334,69 tấn, tăng 5,03% (bằng 63,86 tấn) so cùng kỳ. Do hộ khai thác nội địa từ khai thác thủy sản khác (lươn, ếch…) đang có chiều hướng có lợi nên tăng mạnh.

- Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước được 28.104,79 tấn, tăng 10% (bằng 2.556,11 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 513,47 tấn, tăng 18,23% (bằng 79,19 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 225,61 tấn, tăng 5,68% (bằng 12,13 tấn) so với cùng kỳ. Hai sản phẩm này thời gian qua đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.

2. Sản xuất công nghiệp

Ước thực hiện tháng 5/2024, giá trị sản xuất công nghiệp:

- Tính theo giá so sánh 2010, được 3.596,17 tỷ đồng, tăng 4,48% so với tháng trước và tăng 15,33% so với cùng kỳ năm trước.

- Tính theo giá hiện hành, được 6.617,64 tỷ đồng, tăng 4,02% so với tháng trước và tăng 17,62% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công Ty Cổ Phần Thủy Sản Minh Phú Hậu Giang, mới đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động một phân xưởng quy mô trên 2.000 lao động, nên dự tính sản lượng sản xuất tháng 5 được 2.810 tấn, tăng 7,66% so với tháng trước và tăng 53,55% so với cùng kỳ năm trước; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Lạc Tỷ 2, hoạt động ngành sản xuất giày da, dự tính sản lượng sản xuất tháng 5 được 1,72 triệu đôi, tăng 0,87% so với tháng trước và tăng 44,73% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, tăng một phần là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực Sông Hậu 1, do nhu cầu sử dụng điện tăng cao trong mùa nắng nóng, nên dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 5 được 741 triệu Kwh, tăng 0,82% so với tháng trước và tăng 34,48% so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp nêu trên tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trên 2.933,37 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 44,32% trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh và tăng 37,86% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, ước giá trị sản xuất tháng 5/2024 tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp:

- Tính theo giá so sánh 2010, được 16.046,52 tỷ đồng, tăng 12,69% so với cùng kỳ năm trước và đạt 37,78% so với kế hoạch năm.

- Tính theo giá hiện hành, được 29.001,12 tỷ đồng, tăng 15,04% so với cùng kỳ năm trước và đạt 38,91% so với kế hoạch năm. Trong đó:

+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất ước được 6.787,05 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 23,40% trong toàn ngành và tăng 20,32% so với cùng kỳ.

+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 348 doanh nghiệp, hợp tác xã và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất ước được 16.888,02 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,24% trong toàn ngành và tăng 10,43% so với cùng kỳ.

+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 11 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất ước được 5.326,05 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,36% trong toàn ngành và tăng 24,59% so với cùng kỳ.

Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Trong những tháng gần đây, lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có nhiều dự án mới đi vào hoạt động, với nhiều chính sách hỗ trợ kêu gọi đầu tư và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội.

Dự tính tháng 5/2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 3,66% so với tháng trước và tăng 9,56% so với cùng kỳ. Trong đó:

- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 3,94% so với tháng trước và tăng 7,85% so với cùng kỳ. Cụ thể một số ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước như:

+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 7,27% so với tháng trước và tăng 34,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 45,35% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 7,86% so với tháng trước và tăng 46,42% so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền tăng 7,58% so với tháng trước và tăng 117,48% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 6,81% so với tháng trước và tăng 11,07% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

+ Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, tăng 1,18% so với tháng trước và tăng 41,48% so với cùng kỳ năm trước, giá trị sản xuất của ngành này chủ yếu do 03 doanh nghiệp sản xuất giày da trên địa bàn tỉnh, đóng góp trên 98,65% giá trị sản xuất của ngành sản xuất da và các san phẩm có liên quan (trên 665,49 tỷ/tháng theo giá hiện hành), trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được nhiều hợp đồng sản xuất giày có chất lượng cao tại những thị trường truyền thống như: Canada, Đức, Hoa Kỳ, Mexico,... nên các doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động để hoàn thành các hợp đồng đã ký. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.

+ Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy, tăng 0,45% so với tháng trước và tăng 9,40% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công ty TNHH Giấy LEE & Man Việt Nam, nhận được các hợp đồng lớn từ những thị trường truyền thống như: Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Hồng Kông,… nên doanh nghiệp dự tính tháng 5 sản xuất được 40.220 tấn, tăng 0,52% so với tháng trước và tăng 7,17% so với cùng kỳ.

+ Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, tăng 2,83% so với tháng trước và tăng 15,05% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do các công ty và cơ sở cá thể, sản xuất mặt hàng cửa sắt, nhôm các loại, tăng sản lượng sản xuất, để cung cấp nhà thầu hoàn thiện các công trình xây dựng nhà các loại trước khi mùa mưa đến. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.

- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 4,43% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 05 doanh nghiệp đang hoạt động ổn định trong ngành này. Trong đó, Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, dự tính sản lượng sản xuất tháng 5/2024 được 1.250 ngàn M3, tăng 1,87% so với tháng trước và tăng 16,17% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

Dự tính 5 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 9,39% so với cùng kỳ (thấp hơn mức tăng 14,27% của 5 tháng năm 2022 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 14,26% của 5 tháng năm 2023 so với cùng kỳ). Trong đó:

- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng trên 74,65% trong toàn ngành công nghiệp, nhưng tăng 8,66% so với cùng kỳ (thấp hơn mức tăng 12,29% của 5 tháng năm 2022 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 8,84% của 5 tháng năm 2023 so với cùng kỳ). Nhìn chung, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại sau đợt ảnh hưởng kinh tế thế giới suy thoái. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đặc biệt, tỉnh đang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản có lợi thế cạnh tranh và sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ như: xay xát; chế biến thủy sản đông lạnh; sản xuất trái cây đóng hộp; chế biến trà mãng cầu; chế biến cá thát lát,… các sản phẩm này có khả năng xuất khẩu và giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội, mang đến thu nhập cho người dân. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước.

- Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 19,40% so với cùng kỳ (thấp hơn mức tăng 478,59% của 5 tháng năm 2022 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 269,07% của 5 tháng năm 2023 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức hoạt động ổn định từ giữa năm 2022 đến nay, nên đã làm chỉ số sản xuất ngành này không tăng đột biến như cùng thời điểm năm 2022 và năm 2023 với cùng kỳ.

- Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,65% so với cùng kỳ.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 5 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 12.523 tấn, tăng 34,01%; sản lượng nước mắm sản xuất được 43.218 ngàn lít, tăng 18,30%; sản lượng sản xuất giày dép các loại được 9.692 ngàn đôi, tăng 57,8%; sản lượng điện sản xuất được 2.897 triệu kwh, tăng 19,76%. Ở chiều ngược lại, do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu, nguyên, vật liệu đầu vào biến động khó lường trong những tháng vừa qua, nên sản lượng sản xuất một số sản phẩm so với cùng kỳ tăng trưởng âm trong 5 tháng năm 2024 như: Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 151.568 tấn, giảm 1,3%; sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 89,36 triệu lít, giảm 3,56%; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 180.604 tấn, giảm 1,42%.

Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/5/2024, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 1% so với tháng trước và giảm 0,39% so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng năm 2024, tăng 1,58% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành sử dụng nhiều lao động, tạo ra giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành và có chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ như: Sản xuất trang phục tăng 19,54%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan tăng 6,35%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 2,65%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 8,53%, ... Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động chung của toàn tỉnh trong 5 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ.

3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Trong tháng (tính từ ngày 16/4/2024 - 17/5/2024), có 66 doanh nghiệp đăng ký mới (trong đó có 39 doanh nghiệp, 27 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn đăng ký là 510,14 tỷ đồng; có 17 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 10 doanh nghiệp, tổng vốn là 30,94 tỷ đồng); có 19 doanh nghiệp đăng ký giải thể (trong đó có 08 doanh nghiệp, tổng vốn là 34,10 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 11 đơn vị trực thuộc).

Tính từ đầu năm đến nay, có 372 doanh nghiệp đăng ký mới (trong đó có 266 doanh nghiệp, 106 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tổng số vốn đăng ký là 1.974,94 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 12,7% về số lượng doanh nghiệp và tăng 74,8% về số vốn điều lệ); có 183 hồ sơ đăng ký tạm ngừng hoạt động (trong đó có 138 doanh nghiệp, tổng vốn là 114,94 tỷ đồng); có 143 hồ sơ đăng ký giải thể (trong đó có 33 doanh nghiệp, tổng vốn là 140,55 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 110 đơn vị trực thuộc), so cùng kỳ tăng gấp 6 lần về số doanh nghiệp và tăng gấp 04 lần về vốn điều lệ.

4. Vốn đầu tư

Kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh năm 2024 là 26.158,94 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:

- Vốn ngân sách nhà nước: 6.987,69 tỷ đồng.

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 5.200,75 tỷ đồng.

- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 13.970,50 tỷ đồng.

Ước tính tháng 5/2024, vốn đầu tư thực hiện được 2.142,97 tỷ đồng, bằng 103,97% so với tháng trước và bằng 106,59% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà n­ước thực hiện được 506,50 tỷ đồng; Vốn tự có của doanh nghiệp nhà n­ước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện đ­ược 415,30 tỷ đồng; Vốn đầu t­ư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà n­ước có khối lượng thực hiện được 1.221,17 tỷ đồng.

Ước tính 5 tháng đầu năm 2024, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 9.874,58 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,59%, đạt 37,75% so với kế hoạch năm (26.158,94 tỷ đồng) và đạt 39,55% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân tỉnh năm 2024 (24.970 tỷ đồng). Chia ra:

- Vốn ngân sách nhà n­ước thực hiện được 2.196,93 tỷ đồng, bằng 128,33% so với cùng kỳ năm tr­ước và đạt 31,44% so với kế hoạch năm.  

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà n­ước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện đ­ược 1.968,21 tỷ đồng, bằng 207,60% so với cùng kỳ năm trước và đạt 37,84% so với kế hoạch năm.       

- Vốn đầu t­ư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà n­ước có khối lượng thực hiện được 5.709,44 tỷ đồng, bằng 91,07% so với cùng kỳ năm tr­ước và đạt 40,87% so với kế hoạch năm.

Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian; Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, nguồn vốn kế hoạch được giao năm 2024 tăng 12,73% so với cùng kỳ.

Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 theo mục tiêu đã đề ra, các Chủ đầu tư cần phối hợp với sở, ngành địa phương thực hiện một số giải pháp sau:

- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.               

- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2024.

- Tập trung tối đa nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hoàn thiện các hạng mục công trình, hoàn thành công tác nghiệm thu, thanh toán và giải ngân vốn cho nhà thầu; khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành năm 2024.

- Triển khai thực hiện các thủ tục đầu tư đúng quy định nhằm đảm bảo thời gian giải ngân kế hoạch vốn và tiến độ thực hiện các dự án khởi công mới.

- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2024 của các dự án có tỷ lệ giải ngân thấp, các dự án không có khả năng giải ngân hết vốn được giao sang các dự án có khả năng giải ngân cao, có nhu cầu bổ sung vốn.

- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.

- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.

- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.

5. Tài chính, tín dụng

5.1. Tài chính

Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 5/2024 được 1.239,17 tỷ đồng, luỹ kế được 8.617,27 tỷ đồng, đạt 70,42% dự toán Trung ương, đạt 63,64% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:

- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 482,88 tỷ đồng, luỹ kế được 2.792,01 tỷ đồng, đạt 44,43% dự toán Trung ương, đạt 37,23% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:

+ Thu nội địa: 430 tỷ đồng, luỹ kế được 2.587,01 tỷ đồng, đạt 44,75% dự toán Trung ương và đạt 38,04% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 52,88 tỷ đồng, luỹ kế được 205,00 tỷ đồng, đạt 40,76% dự toán Trung ương và đạt 29,29% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Trung ương trợ cấp được 535,53 tỷ đồng, luỹ kế được 2.608,01 tỷ đồng, đạt 43,81% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 5/2024 được 909,26 tỷ đồng, luỹ kế được 5.607,25 tỷ đồng, đạt 49,57% dự toán Trung ương giao, đạt 45,20% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:

- Chi xây dựng cơ bản: 321,14 tỷ đồng, luỹ kế được 3.470,39 tỷ đồng, đạt 57,07% dự toán Trung ương giao, đạt 50,54% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Chi thường xuyên: 588,13 tỷ đồng, luỹ kế được 2.135,36 tỷ đồng, đạt 42,10% dự toán Trung ương giao, đạt 39,77% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

5.2. Tín dụng ngân hàng

Đến ngày 30/4/2024, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 22.889 tỷ đồng, tăng 0,72% so với cuối năm 2023. Vốn huy động đáp ứng được 53,53% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 13.339 tỷ đồng (chiếm 58,28% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.550 tỷ đồng (chiếm 41,72% tổng huy động). Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,2%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 1,6-3,0%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 3-3,6%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 4,7-5,0%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 5/2024, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 23.500 tỷ đồng, tăng trưởng 3,41% so với cuối năm 2023.

Đến ngày 30/4/2024, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 42.763 tỷ đồng, tăng trưởng 6,88% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 23.262 tỷ đồng (chiếm 54,40% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 19.501 tỷ đồng (chiếm 45,60% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân từ 6,5-10%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn bình quân từ 8,5-13%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 5/2024, dư nợ đạt 43.200 tỷ đồng, tăng trưởng 7,98% so với cuối năm 2023.

Nợ quá hạn đến cuối tháng 4/2024 là 1.316 tỷ đồng, chiếm 3,08%/tổng dư nợ; nợ xấu là 595 tỷ đồng, chiếm 1,39%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 721 tỷ đồng, chiếm 54,79%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 5/2024, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.                          

Một số chương trình tín dụng trọng điểm: Tính đến cuối tháng 4/2024, dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương đạt được kết quả sau:

- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 3.579 tỷ đồng, tăng trưởng 26,60% so với cuối năm 2023.

- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 4.308 tỷ đồng, tăng trưởng 12,39% so với cuối năm 2023.

- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 4,34 tỷ đồng, giảm 42,36% so với cuối năm 2023.

- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 13,90 tỷ đồng, giảm 15,91% so với cuối năm 2023.

- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 228 tỷ đồng, giảm 0,44% so với cuối năm 2023.

- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 4.267 tỷ đồng, tăng trưởng 4,53% với cuối năm 2023.

- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 25.724 tỷ đồng, tăng trưởng 6,25% so với cuối năm 2023.

- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 363 tỷ đồng, tăng trưởng 13,44% so với cuối năm 2023.

 - Cho vay xây dựng nông thôn mới toàn địa bàn dư nợ 17.305 tỷ đồng, tăng trưởng 3,92% so với cuối năm 2023.

- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp có doanh số cho vay đạt 8.041 tỷ đồng, dư nợ đạt 13.567 tỷ đồng, tăng trưởng 16,74% so với cuối năm 2023, với 773 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.

 - Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 15 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Ước thực hiện tháng 5/2024, tổng doanh thu thương mại và các ngành dịch vụ tiêu dùng được 4.836,97 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 0,69% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,35%. Doanh thu bán lẻ và ngành dịch vụ đều có mức tăng nhẹ so với tháng trước. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.513,20 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,87% và so với cùng kỳ bằng 98,85%. Tình hình hoạt động bán lẻ hàng hóa các loại trong tháng được dự báo sẽ diễn ra ổn định nhưng có phần ít sôi động hơn so với tháng trước. Hầu hết các nhóm hàng được dự tính sẽ có mức tăng so với tháng trước nhưng vẫn ở mức không cao. Riêng hoạt động giao dịch vàng bạc đá quý được dự ước sẽ diễn ra sôi động và có mức tăng tương đối do những tháng gần đây giá vàng liên tục lập đỉnh lịch sử giao dịch và chưa có dấu hiệu ngừng tăng trong thời gian gần đây. So với cùng kỳ tổng doanh thu ngành bán lẻ giảm nhẹ 1,15%, do các nhóm hàng chủ lực dù có tốc độ tăng so với cùng kỳ nhưng nhìn chung ở mức không cao trong khi các nhóm hàng khác lại có mức giảm mạnh so với cùng kỳ bao gồm: Vật liệu xây dựng giảm 22,43%, xăng dầu giảm 21,70%, nhiên liệu khác giảm 6,72% và hàng hóa khác giảm 4,16%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành, giá trị ước thực hiện được 611,73 tỷ đồng[1], so với tháng trước bằng 100,30% và so với cùng kỳ năm trước tăng 12,73%. Bước sang tháng 5 tốc độ tăng của ngành dịch vụ ăn uống có phần chậm lại, dù cũng có mức tăng so với tháng trước nhưng ở mức không cao. Tuy nhiên so với cùng kỳ vẫn duy trì được ở mức cao.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 712,04 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,19% và so với cùng kỳ năm trước tăng 13,18%. Doanh thu các ngành dịch vụ vẫn có quy mô ổn định, các nhóm ngành không có nhiều biến động. Riêng trong tháng 5 hoạt động dịch vụ y tế có mức tăng cao so với những tháng đầu năm bình quân cao hơn khoảng 17% do hoạt động khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, bệnh viện tư nhân bất ngờ có doanh thu tăng cao đột biến 25%. So với cùng kỳ các ngành dịch vụ chi tiết đều có mức tăng cao (trừ dịch vụ kinh doanh bất động sản). Vì vậy, đã thúc đẩy làm tăng giá trị chung.

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 24.528,99 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,72%. Cơ cấu các nhóm ngành đóng góp vào sự tăng trưởng chung của thương mại và dịch vụ vẫn ổn định không có nhiều thay đổi. Doanh thu tổng mức bán lẻ vẫn là ngành chủ lực ảnh hưởng trực tiếp nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung. Quy mô doanh thu của ngành này tạo ra chiếm tỷ trọng hơn 70% tổng doanh thu. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa được 17.810,44 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 105,14%. Dù trong tháng 5 doanh thu bán lẻ bị sụt giảm nhưng ở mức không cao. Do đó tổng doanh thu tính chung 5 tháng đầu năm vẫn giữ được mức tăng trưởng 5,14%. Trong đó nhóm hàng lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, trang thiết bị gia đình, vàng bạc lần lượt có mức tăng 7,70%, 27,99%, 17,28% và 22,89% là những nhóm hàng đóng góp cho sự tăng trưởng của ngành bán lẻ.

- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 3.055,05 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,02%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 125,39 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 37,10%; ngành ăn uống, ước tính được 2.929,66 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 17,32%.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) ước được 3.663,50 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,95%. Với tốc độ luôn giữ ở mức tăng trưởng cao trên 10% qua các tháng so với cùng kỳ năm 2023. Doanh thu toàn ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu thương mại và dịch vụ. Hoạt động các nhóm ngành này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong động lực phát triển kinh tế.

6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Ước thực hiện tháng 5/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 95.941 nghìn USD, so với tháng trước bằng 111,93% và so với cùng kỳ năm trước bằng 83,70%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 61.707 nghìn USD, so với tháng trước bằng 101,17% và so với cùng kỳ năm trước bằng 74,89%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 34.234 nghìn USD, so với tháng trước bằng 138,46% và so với cùng kỳ năm trước bằng 106,20%.

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 445.023 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 96,27% và so với kế hoạch năm đạt 35,10%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 312.156 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,71% và so với kế hoạch năm đạt 38,73%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 115.869 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 71,92% và so với kế hoạch năm đạt 27,72%.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 143 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,72% và so với kế hoạch năm đạt 14,30%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 16.855 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 102,15% và so với kế hoạch năm đạt 39,20%.

Nhìn chung các doanh nghiệp đã nhanh chóng nắm bắt được cơ hội, tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) để được hưởng nhiều lợi ích từ thuế suất thấp, từ cơ chế hỗ trợ giữa các thành viên ký kết FTA, thông qua việc gỡ bỏ rào cản phi thuế quan; đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, thực hiện chuyển đổi số thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Để tận dụng được cơ hội mở cửa thị trường này, vấn đề cần chú trọng là phát triển được nguồn hàng cho xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng và bảo đảm đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi về thuế quan theo các hiệp định. Vì vậy, trong các tháng tới dự đoán các doanh nghiệp sẽ tăng cường nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu để gia tăng sản xuất đáp ứng đủ nguồn hàng cho xuất khẩu.

6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Tình hình hoạt động dịch vụ vận tải kho bãi trong tháng có nhiều biến động ảnh hưởng lớn đến quy mô doanh thu của toàn ngành. Những doanh nghiệp có mức doanh thu tương đối lớn bình quân đạt gần 10 tỷ/tháng hoạt động vận chuyển hàng hóa đường bộ và cung cấp các dịch vụ logistic đã giải thể ngừng hoạt động. Doanh thu toàn ngành vận tải bị ảnh hưởng và giảm quy mô so với các tháng đầu năm tương đương bình quân giảm 11,52% tổng giá trị. Trong đó hoạt động đường bộ chủ yếu vận chuyển hàng hóa giảm 16,43%, logistic giảm 25,21%. Vì vậy, tổng doanh thu dịch vụ vận tải và kho bãi ước tháng 5/2024 được 127,18 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 3,24% và so với cùng kỳ năm trước giảm 7,88%. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 77,97 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,56% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,41%. Loại hình vận chuyển hàng hóa giảm nhưng bù lại vận chuyển hành khách vẫn duy trì được mức tăng cao 22,82% nên tính chung khu vực vận chuyển đường bộ vẫn có mức tăng so với cùng kỳ năm 2023.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 28,79 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,61% và so với cùng kỳ năm trước bằng 95,01%. Giảm so với cùng kỳ chủ yếu ảnh hưởng bởi khu vực vận chuyển hàng hóa của doanh nghiệp. Giá trị doanh thu giảm khoảng 39% so với cùng thời điểm năm 2023.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 20,42 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 106,90% và so với cùng kỳ năm trước bằng 56,98%. Tổng giá trị doanh thu tạo ra của các dịch vụ kho bãi và logistic giảm 43,02% so cùng kỳ chủ yếu do doanh nghiệp giải thể không còn hoạt động nên giá trị sụt giảm nhiều. Còn doanh thu của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng có phần giảm đáng kể so với năm 2023, vì vậy đã làm giảm tốc độ tăng trưởng hoạt động của ngành này.

Dù các biến động có ảnh hưởng nhiều đến quy mô doanh thu nhưng nhờ có tốc độ tăng cao của các tháng đầu năm. Tính chung đến 5 tháng tốc độ tăng của hoạt động vận tải và kho bãi vẫn giữ được mức tăng so với cùng kỳ năm 2023 dù mức tăng không nhiều. Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện 5 tháng năm 2024 được 702,14 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 105,77%. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 421,85 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 119,82%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 150,64 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 97,78%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 129,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 82,19%.

6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa

Ước thực hiện tháng 5/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 407,61 nghìn tấn hàng hóa các loại (67.789,73 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,07% (102,90%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 85,77% (84,21%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 88,31 nghìn tấn (13.751,97 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 105,89% (105,64%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 75,51% (72,15%).

- Đường sông thực hiện được 319,30 nghìn tấn (54.037,76 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,31% (102,23%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 89,11% (87,96%).

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, toàn tỉnh vận chuyển được 2.210,51 nghìn tấn hàng hóa các loại (371.726,91 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 89,74% (95,52%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 528,07 nghìn tấn (82.849,89 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 90,04% (87,96%).

- Đường sông thực hiện được 1.682,44 nghìn tấn (288.877,02 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 89,64% (97,94%).

6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách

Ước thực hiện tháng 5/2024, toàn tỉnh thực hiện được 2.314,65 nghìn lượt hành khách (52.727,86 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 100,43% (100,19%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,20% (108,08%). Trong đó:

- Đường bộ vận chuyển được 221,27 nghìn lượt hành khách (45.633,47 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 100,85% (100,46%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 107,74% (108,06%).

- Đường sông vận chuyển được 2.093,38 nghìn lượt hành khách (7.094,40 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 100,38% (98,51%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 97,29% (108,17%).

Ước thực hiện 5 tháng năm 2024, toàn tỉnh thực hiện được 12.032,51 nghìn lượt hành khách (267.145,33 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 96,68% (112,21%). Chia ra:

- Đường bộ vận chuyển được 1.113,44 nghìn lượt hành khách (231.545,61  nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 114,38% (113,64%).

- Đường sông vận chuyển được 10.919,07 nghìn lượt hành khách (35.599,71 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 95,18% (103,72%).

7. Một số tình hình xã hội

7.1. Giáo dục

Trong tháng, toàn Ngành tập trung vào một số công tác chuyên môn sau:

- Hướng dẫn kiểm tra, đánh giá cuối năm học 2023-2024 các cấp học.

- Hướng dẫn tổ chức ngày hội “Chắp cánh ước mơ” cho học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, năm học 2023-2024.

- Triển khai Quyết định số 1293/QĐ-BGDĐT ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phê duyệt danh mục Tài liệu cho trẻ em mẫu giáo làm quen với tiếng Anh sử dụng trong các cơ sở giáo dục mầm non.

- Thành lập Tổ thẩm định, rà soát hồ sơ lựa chọn sách giáo khoa cấp tiểu học tỉnh Hậu Giang năm học 2024- 2025.

- Lê kế hoạch tổ chức Hội thi "Tin học trẻ" tỉnh Hậu Giang năm 2024 (dự kiến ngày 28/5/2024).

7.2. Văn hóa, thể thao

Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền và tổ chức các hoạt động kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2024); 137 năm ngày Quốc tế Lao động 01/5,... Kết quả: In và lắp mới 3.973m2 pano, 3.490 cờ các loại, 2145 băng rol. Các Đội tuyên truyền lưu động phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương với 78 buổi, phục vụ 47.300 lượt người xem; 14 buổi chiếu phim, 80 lượt phóng thanh cổ động.

Hoạt động thư viện: Tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 3 năm 2024 vào sáng ngày 16/4/2024, thu hút trên 5.850 lượt người tham gia, đọc sách với các hoạt động: Triển lãm 1.500 quyển sách tại chỗ; tổ chức 02 cuộc thi về Sách. Thư viện tỉnh phối hợp với Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh huyện Châu Thành A, thị xã Long Mỹ tổ chức phục vụ sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện, kết hợp tổ chức các hoạt động, trò chơi, cuộc thi tìm hiểu kiến thức qua sách, báo với hơn 100 phần quà tại 10 điểm trường Tiểu học, THCS trên địa bàn huyện Châu Thành A, thị xã Long Mỹ, thu hút 6.444 lượt học sinh tham gia, đọc sách. Phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông đưa thông tin liên quan về Ngày sách và Văn hóa đọc; trưng bày, giới thiệu sách trực tuyến trên trang sách Online tại địa chỉ: http://Sach.haugiang.gov.vn.

Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức 06 cuộc triển lãm ảnh phục vụ các sự kiện: Họp mặt tết Chôl - chnăm - thmây năm 2024 cho đồng bào dân tộc Khmer; Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập ngân hàng Agribank chi nhánh tỉnh Hậu Giang (2004-2024); Lễ phát động về an toàn vệ sinh lao động năm 2024; Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam tỉnh Hậu Giang lần thứ III năm 2024; Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4); Kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 –30/4/2024). Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube  Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 13.356 lượt người.

Lĩnh vực thể dục thể thao: Tổ chức Lễ Khai mạc hè, Ngày Olympic trẻ em và Phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2024. Tham gia 07 giải thể thao đạt 41 huy chương các loại (11 Huy chương vàng (HCV), 14 Huy chương bạc (HCB), 16 Huy chương đồng (HCĐ)): Bóng rổ vô địch 5x5 U23 quốc gia năm 2024 tại thành phố Đà Nẵng (kết quả đạt: 01 HCĐ); giải Điền kinh Cúp tốc độ thống nhất thành phố Hồ Chí Minh năm 2024 (kết quả đạt: 01 HCB, 04 HCĐ); giải Bi sắt vô địch quốc gia năm 2024 tại Nghệ An (kết quả đạt: 01 HCĐ); giải vô địch câu lạc bộ Jujitsu quốc gia tại Cần Thơ (kết quả đạt: 01 HCV, 02 HCB, 01 HCĐ); giải vô địch Vovinam các đội mạnh toàn quốc tại Gia Lai (kết quả đạt: 01 HCV, 02 HCB, 02 HCĐ); giải vô địch CLB Triathlon quốc gia năm 2024 tại TP.HCM (kết quả đạt: 02 HCB, 01 HCĐ); giải vô địch Karate miền Nam lần thứ III năm 2024 tại Kiên Giang (kết quả: 09 HCV, 07 HCB, 06 HCĐ).

7.3. Lao động và an sinh xã hội

Trong tháng, giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 2.938(10.757) lao động, đạt 71,71% kế hoạch năm. Trong đó, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là 168(375) lao động, đạt 50,07% kế hoạch.

Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp: Đào tạo nghề cho 250(7.905) người. Trong đó: Cao đẳng 0(52) người; Trung cấp: 0(359) người; Sơ cấp và dưới 03 tháng: 250(7.494) người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 69,72%.

Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 207(1.007) hồ sơ các loại (kỳ trước chuyển sang 39 hồ sơ). Đã xét giải quyết 220(981) hồ sơ. Trong đó, đạt 210(928) hồ sơ, không đạt 10(53) hồ sơ. Còn 26 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Tổ chức đưa, đón 50(90) người có công với cách mạng đi tham quan, điều dưỡng tập trung tại Trung tâm điều dưỡng người có công miền Trung. Giới thiệu 03(15) trường hợp người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học ra Hội đồng Giám định y khoa tỉnh khám giám định tỷ lệ bị nhiễm chất độc hóa học.

Công tác bảo trợ xã hội: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 41.185(204.719 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội, với số tiền 23.636,7(115.616,3) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 225(930) trường hợp, với số tiền 1.620(6.690) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 07(25) trường hợp, với số tiền 119(454) triệu đồng.

Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 58(279) cuộc với 2.236(8.697) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 41(171) cuộc với 288(1.060) phút tuyên truyền. Về công tác quản lý đối tượng, hiện tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 671 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 237 người.

7.4. Y tế

Trong tháng, có 17 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tăng 03 ca so với tháng trước, cộng dồn là 92 ca, giảm 378 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 38 ca mắc mới, giảm 02 ca so với tháng trước, cộng dồn là 519 ca, tăng 391 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi trong tháng có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 so với cùng kỳ; bệnh đậu mùa khỉ có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca; tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút có 09 ca mắc mới, cộng dồn là 36 ca, tăng 31 ca so với cùng kỳ; bệnh Viêm não Nhật Bản có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.

Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 910 trẻ, cộng dồn là 3.355 trẻ, đạt 32,8%. Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 916 thai phụ, cộng dồn là 3.195 thai phụ, đạt 31,2%. Tiêm tiêm Sởi – Rubella (Sởi 2) trong tháng là 948 trẻ, cộng dồn là 3.714 trẻ, đạt 35,1%. Tiêm mũi 3 Viêm não Nhật Bản trong tháng là 938 trẻ, cộng dồn là 12.703 trẻ, đạt 27,4%.

Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 14 ca, cộng dồn là 58 ca (tăng 41 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.088 ca (số đang quản lý 1.138); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 616 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 60 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.062 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 513 lượt, cộng dồn là 3.219 lượt.

Kết quả thực hiện khám, chữa bệnh đến tháng 5/2024: Tổng số lần khám là 134.457 lượt, cộng dồn là 702.916 lượt, đạt 45,56% kế hoạch, tăng 9,55% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 9.685 lượt, cộng dồn là 48.027 lượt, đạt 35,95% kế hoạch, tăng 2,58% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,21 ngày, tăng 0,18 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 4.105 trường hợp, tăng 95 trường hợp so với cùng kỳ.

7.5. Tai nạn giao thông

Trong tháng 5/2024, toàn tỉnh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 04 người, bị thương 09 người (trong đó có 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm bị thương 01 người). So với tháng 4/2024, số vụ giảm 01 vụ, số người chết tăng 01 người, số người bị thương giảm 02 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 04 vụ, số người chết giảm 04 người, số người bị thương tăng 07 người. Nguyên nhân đang xác minh làm rõ 12 vụ.

Trong 5 tháng đầu năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/5/2024), toàn tỉnh xảy ra 60 vụ tai nạn giao thông, làm chết 26 người, bị thương 41 người. So cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 08 vụ, số người chết giảm 23 người, số người bị thương tăng 31 người. Trong đó, tai nạn giao thông đường thủy xảy ra 01 vụ, bị thương 01 người; so với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 01 vụ, số người chết tương đương, số người bị thương tăng 01 người.

7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Tình hình thiên tai: Trong tháng, xảy ra 2 vụ sạt lở, sụt lún đất, diện tích mất đất là 270m2, ước giá trị thiệt hại là 144 triệu đồng. So với tháng trước giảm 2 vụ, ước số tiền thiệt hại giảm 665 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ sạt lở giảm 04 vụ, ước giá trị thiệt hại giảm 797 triệu đồng.

Tình hình môi trường: Trong tháng, không phát hiện số vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 01 vụ của tháng 3/2024, số tiền xử phạt là 1,10 triệu đồng. So với tháng trước số vụ phát hiện không có, số vụ xử lý tăng bằng nhau, số tiền xử phạt tăng 1,10 triệu. So với cùng kỳ năm trước số vụ vi phạm giảm 03 vụ, số vụ xử lý giảm 05 vụ, số tiền xử phạt giảm 97,15 triệu đồng. Tích lỹ từ đầu năm, số vụ phát hiện 08 vụ, đã xử lý 08 vụ (trong đó nhắc nhở 06 vụ, xử phạt 02 vụ với số tiền 16,10 triệu đồng). So với cùng kỳ năm 2023, số vụ phát hiện giảm 14 vụ, số vụ xử lý giảm 13 vụ, số tiền xử phạt giảm 449,65 triệu đồng.

Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính, sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Vì vậy, trong tháng không xảy ra cháy, nổ. Tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 01 vụ cháy, nổ, ước tính giá trị tài sản thiệt hại khoảng 130 triệu đồng./.

[1] Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 25,02 tỷ đồng, so tháng trước bằng 101,95% và so với cùng kỳ tăng 26,62%; Ngành ăn uống ước tính được 586,70 tỷ đồng, so tháng trước bằng 100,24% và so cùng kỳ năm trước tăng 12,20%. Thời điểm tháng 5 bắt đầu bước vào mùa mưa do ảnh hưởng của thời tiết diễn biến bất thường và khó lường cũng là nguyên nhân làm doanh thu ăn uống tăng không nhiều.


Bao cao KTXH T5.2024.doc Tải về
So lieu KTXH T5.2024.xlsx Tải về

Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác