Thứ hai, 00/00/2023
°

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6, quý II và 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Hậu Giang

Ngày 28/06/2024 - 16:13:00 | 1170 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2024 tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Hậu Giang tiếp tục phát triển ổn định, nhiều giải pháp phù hợp được triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Vì vậy, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh đều có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 8,04%; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,42%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 11,89%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 7,44%; doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 3,45%. Cụ thể, kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Ước tính quý II/2024, GRDP theo giá so sánh 2010 đạt 7.159 tỷ đồng, tăng 9,78% so với cùng kỳ, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,85%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 17,23%; khu vực dịch vụ tăng 5,41%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,09%. Về quy mô nền kinh tế đạt 15.154 tỷ đồng, cơ cấu trong quy mô nền kinh tế như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,80%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 46,84%; khu vực dịch vụ chiếm 35,03%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 7,33%. Nhìn chung cơ cấu nền kinh tế quý II/2024 tiếp tục có sự dịch chuyển giữa các khu vực so với cùng kỳ (cơ cấu tương ứng cùng kỳ lần lượt là 11,33%; 44,08%; 36,55% và 8,05%).

Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, GRDP theo giá so sánh 2010 đạt 15.388 tỷ đồng, tăng 8,04% so với cùng kỳ năm trước (xếp thứ 15 cả nước và thứ 2 vùng Đồng bằng sông Cửu Long). Cụ thể đóng góp từng khu vực như sau:

- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước được 3.190 tỷ đồng, tăng 3,79% so cùng kỳ, đóng góp 0,82 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy có tốc độ tăng khá là do diện tích, sản lượng rau màu tăng, sản lượng cây ăn quả tăng cùng với sự tăng trưởng tốt của đàn heo và gia cầm.

- Khu vực công nghiệp và xây dựng ước được 5.454 tỷ đồng, tăng 14,31% so cùng kỳ, đóng góp chung vào mức tăng trưởng GRDP là 4,79 điểm phần trăm, trong đó ngành công nghiệp tăng 13,98%, đóng góp 4,04 điểm phần trăm. Đóng góp nhiều nhất trong tăng trưởng ngành công nghiệp là ngành sản xuất và phân phối điện (chiếm cơ cấu 55,04% trong giá trị tăng thêm ngành công nghiệp), với tốc độ tăng trưởng 20,47%, cùng với sự tăng trưởng của một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như: Sản xuất, chế biến thực phẩm (chiếm 9,49% ngành công nghiệp) tăng 19,55%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (chiếm 8,07% ngành công nghiệp) tăng 36,13%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại (chiếm 3,21% ngành công nghiệp) tăng 8,98%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (chiếm 5,81% ngành công nghiệp) tăng 1,01%.

- Khu vực dịch vụ ước được 5.419 tỷ đồng, tăng 6,46%, đóng góp 2,31 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP. Trong đó, một số ngành tăng trưởng khá so với cùng kỳ góp phần vào sự tăng trưởng chung của cả khu vực như: Ngành bán buôn tăng 9,70%, ngành bán lẻ tăng 0,40%, ngành dịch vụ ăn uống tăng 11,19%.

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước được 1.325 tỷ đồng, tăng 1,31% so cùng kỳ.

Quy mô nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 đạt 31.843 tỷ đồng. Về cơ cấu trong quy mô nền kinh tế 6 tháng như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 19,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,48%; khu vực dịch vụ chiếm 32,93%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 7,76%. Nhìn chung cơ cấu nền kinh tế 6 tháng năm 2024 có sự dịch chuyển giữa các khu vực so với cùng kỳ (cơ cấu tương ứng cùng kỳ lần lượt là 19,54%; 38,35%; 33,71%; 8,40%).

2. Tài chính, tín dụng

2.1. Tài chính

Ước tổng thu Ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2024 được 9.741,17 tỷ đồng, đạt 79,60% dự toán Trung ương, đạt 58,13% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:

- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 3.210,59 tỷ đồng, đạt 51,09% dự toán Trung ương, đạt 42,81% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:

+ Thu nội địa: 2.959,09 tỷ đồng, đạt 51,19% dự toán Trung ương và đạt 43,52% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 251,50 tỷ đồng, đạt 50% dự toán Trung ương và đạt 35,93% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Trung ương trợ cấp được 3.093,92 tỷ đồng, đạt 51,97% dự toán Trung ương và đạt 51,45% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

Ước tổng chi Ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2024 được 6.368,30 tỷ đồng, đạt 56,30% dự toán Trung ương giao, đạt 40,76% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:

- Chi xây dựng cơ bản: 4.052,14 tỷ đồng, đạt 66,62% dự toán Trung ương giao, đạt 44,02% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

- Chi thường xuyên: 2.314,74 tỷ đồng, đạt 45,64% dự toán Trung ương giao, đạt 38% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

2.2 Tín dụng ngân hàng

Đến ngày 31/5/2024, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 23.477 tỷ đồng, tăng trưởng 3,30% so với cuối năm 2023. Vốn huy động đáp ứng được 54,91% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 13.897 tỷ đồng (chiếm 59,19% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.580 tỷ đồng (chiếm 40,81% tổng huy động). Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 01 tháng phổ biến từ 0,1-0,2%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 1,6-2,8%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 3,0- 4,3%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 4,7-5,4%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2024, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 23.500 tỷ đồng, tăng trưởng 3,41% so với cuối năm 2023.

Đến ngày 31/5/2024, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 42.757 tỷ đồng, tăng trưởng 6,87% so với cuối năm 2023. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 23.081 tỷ đồng (chiếm 53,98% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 19.676 tỷ đồng (chiếm 46,02% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 6,5-10%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến từ 8,5-13%. Ước thực hiện đến cuối tháng 6/2024, dư nợ đạt 43.200 tỷ đồng, tăng trưởng 7,98% so với cuối năm 2023. Nợ quá hạn đến cuối tháng 5/2024 là 1.335 tỷ đồng, chiếm 3,12%/tổng dư nợ; nợ xấu là 641 tỷ đồng, chiếm 1,50%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 694 tỷ đồng, chiếm 51,99%/tổng nợ quá hạn. Phấn đấu đến cuối tháng 6/2024, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.

Một số chương trình tín dụng trọng điểm tính đến cuối tháng 5/2024 đạt được kết quả sau:

- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 3.344 tỷ đồng, tăng trưởng 18,25% so với cuối năm 2023.

- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 4.292 tỷ đồng, tăng trưởng 11,97% so với cuối năm 2023.

- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 4.322 tỷ đồng, tăng trưởng 5,88% với cuối năm 2023.

- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 25.795 tỷ đồng, tăng trưởng 6,54% so với cuối năm 2023.

- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 363 tỷ đồng, tăng trưởng 13,44% so với cuối năm 2023.

- Cho vay xây dựng nông thôn mới toàn địa bàn dư nợ 17.305 tỷ đồng, tăng trưởng 3,92% so với cuối năm 2023.

- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp có doanh số cho vay đạt 8.041 tỷ đồng, dư nợ đạt 13.567 tỷ đồng, tăng trưởng 16,74% so với cuối năm 2023, với 773 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.

- Các chương trình cho vay khác còn dư nợ: Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 4,35 tỷ đồng; Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 13,16 tỷ đồng; Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 228 tỷ đồng.

- Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 30 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.

2.3 Bảo hiểm

Tính đến tháng 6/2024, số người tham gia BHYT là 659.542 người, đạt tỷ lệ bao phủ 90,56% dân số của tỉnh, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng số người tham gia BHXH là 81.457 người, chiếm 20,02% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: số người tham gia BHXH bắt buộc là 64.033 người, tăng 1,9%; số người tham gia BHXH tự nguyện là 17.424 người, tăng 32,5% so với cùng kỳ. Số người tham gia BHTN là 58.839 người, chiếm 14,46% lực lượng lao động trong độ tuổi và tăng 1,9% so với cùng kỳ.

3. Vốn đầu tư và Xây dựng

3.1. Vốn đầu tư

Kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2024 là 26.158,94 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:

- Vốn ngân sách nhà nước: 6.987,69 tỷ đồng.

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 5.200,75 tỷ đồng.

- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 13.970,50 tỷ đồng.

Ước tính tháng 6/2024, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được 2.293,43 tỷ đồng, bằng 102,97% so với tháng trước và bằng 113,49% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 545,77 tỷ đồng; Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 425,30 tỷ đồng; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.322,36 tỷ đồng.

Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 12.252,38 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 111,89%, so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh đạt 104,28%, đạt 46,84% so với kế hoạch năm (26.158,94 tỷ đồng) và đạt 49,07% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân tỉnh năm 2024 (24.970 tỷ đồng). Chia ra:

- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.750,28 tỷ đồng, bằng 124,76% so với cùng kỳ năm trước và đạt 39,36% so với kế hoạch năm.    

- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 2.394,41 tỷ đồng, bằng 213,16% so với cùng kỳ năm trước và đạt 46,04% so với kế hoạch năm.        

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 7.107,70 tỷ đồng, bằng 93,25% so với cùng kỳ năm trước và đạt 50,88% so với kế hoạch năm.

Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian; Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, nguồn vốn kế hoạch được giao năm 2024 tăng 12,73% so với cùng kỳ.

Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 theo mục tiêu đề ra tại Kế hoạch 76/KH-UBND của UBND tỉnh ngày 08/04/2024 là đạt tối thiểu 60% đến ngày 01/7/2024, các Chủ đầu tư cần phối hợp với sở, ngành địa phương thực hiện một số giải pháp:

- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.               

- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2024.

- Tập trung tối đa nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hoàn thiện các hạng mục công trình, hoàn thành công tác nghiệm thu, thanh toán và giải ngân vốn cho nhà thầu; khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành năm 2024.

- Triển khai thực hiện các thủ tục đầu tư đúng quy định nhằm đảm bảo thời gian giải ngân kế hoạch vốn và tiến độ thực hiện các dự án khởi công mới.

- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2024 của các dự án có tỷ lệ giải ngân thấp, các dự án không có khả năng giải ngân hết vốn được giao sang các dự án có khả năng giải ngân cao, có nhu cầu bổ sung vốn.

- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.

- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.

- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán,… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.

3.2. Xây dựng

Ước tính quý II/2024, giá trị sản xuất ngành xây dựng:

- Tính theo giá so sánh 2010 được 1.977,41 tỷ đồng, tăng 7,76% so với quý trước và tăng 14,13% so với cùng kỳ năm trước.

- Tính theo giá hiện hành được 3.320,62 tỷ đồng, tăng 8,07% so với quý trước và tăng 15,66% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

+ Công trình nhà ở được 1.314,69 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39,59% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 10,40% so quý trước và giảm 17,84% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do tình hình giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao (giá cát xây dựng vẫn ở mức cao), nên tiến độ các công trình nhà ở xã hội triển khai chậm tiến độ so với kế hoạch của dự án đã đề ra. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất công trình nhà ở giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước.

+ Công trình nhà không để ở được 461,55 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,90% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 66,06% so với quý trước và giảm 13,04% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp đã đẩy nhanh tiến độ một số công trình lớn như: Xây dựng khu hành chính huyện Long Mỹ (các hạng mục phát sinh) tổng giá trị công trình 10,36 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 2,9 tỷ đồng; công trình xây dựng Cụm công trình Y tế giai đoạn 1, tổng giá trị công trình 44,98 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 7 tỷ đồng, … Ngoài ra, tăng so với quý trước một phần là do các dự án sửa chữa trụ sở làm việc cơ quan, trường học; xây mới nhà văn hóa một số xã; nhà kho công ty tại các khu, cụm công nghiệp, … Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở tăng so với quý trước nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước.

+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 1.388,06 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 41,80% trong tổng gía trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 4,42% so với quý trước và tăng 123,54% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân các dự án công trình kỹ thuật dân dụng tăng cao so với cùng kỳ là do loại công trình này là những công trình lớn, thời gian hoàn thành thường trên 12 tháng như: Xây dựng đường tỉnh 931, tổng mức đầu tư gói thầu 75 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã giải ngân hoàn thành được 30,57% giá trị công trình; Xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 55 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 25,25% khối lượng công trình; Xây dựng đường tỉnh 929, tổng mức đầu tư gói thầu 150,45 tỷ đồng, dự kiến thực hiện trong quý được 21,94 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 29,44% khối lượng công trình,… Ngoài ra, một số công trình khác có quy mô tương đối lớn được khởi công đầu tư xây dựng trong giai đoạn trước, hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện và dự kiến được hoàn thành trong các quý còn lại của năm 2024, làm nâng cao giá trị sản xuất xây dựng trong thời gian tới.

+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 156,32 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,71% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 3,11% so với quý trước và tăng 31,22% so với cùng kỳ năm trước.

Ước thực hiện 6 tháng năm 2024, giá trị sản xuất ngành xây dựng:

- Tính theo giá so sánh 2010 được 3.812,40 tỷ đồng, tăng 19,09% so với cùng kỳ năm trước và đạt 104,31% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra.

- Tính theo giá hiện hành được 6.393,34 tỷ đồng, tăng 20,01% so với cùng kỳ năm trước và đạt 103,96% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra. Trong đó:

+ Công trình nhà ở được 2.505,52 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39,19% trong toàn ngành và giảm 13,29% so với cùng kỳ năm trước.

+ Công trình nhà không để ở được 739,49 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,57% trong toàn ngành và giảm 23,77% so với cùng kỳ.

+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 2.840,39 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44,43% trong toàn ngành và tăng 119,54% so với cùng kỳ năm trước.

+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 307,92 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,82% trong toàn ngành và tăng 76,76% so với cùng kỳ năm trước.

Nguyên nhân giá trị sản xuất ngành xây dựng ước thực hiện 6 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước là do hiện nay những dự án khởi công mới được khẩn trương triển khai thực hiện (chủ yếu là các công trình xây dựng dân dụng và xây dựng chuyên dụng), công tác phối hợp các bên liên quan đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu; các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, giá trị xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu được thực hiện tập trung vào các hạng mục công trình nâng cấp, mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến lộ nông thôn và các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh. Riêng một số công trình có mức đầu tư lớn hầu hết được các đơn vị thầu ngoài tỉnh thi công. Do vậy, để giúp ngành xây dựng phát triển và tiếp tục nâng cao giá trị sản xuất trong thời gian tới kiến nghị các ngành chức năng, các cấp, các ngành có kế hoạch chỉ đạo tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị thi công hoàn thành các hạng mục công trình theo đúng tiến độ đề ra.

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Trong tháng, có 118 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 52 doanh nghiệp so với tháng trước, tổng số vốn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 565 tỷ đồng, tăng 55 tỷ đồng so với tháng trước; không có doanh nghiệp đăng ký giải thể hay tạm ngừng hoạt động.

Tính từ đầu năm đến nay, có 490 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 25,32% so với cùng kỳ, tổng số vốn đăng ký là 2.530 tỷ đồng, tăng 98,59% so cùng kỳ; có 143 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tăng 122 doanh nghiệp so với cùng kỳ (cùng kỳ là 21 doanh nghiệp); có 183 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 77 doanh nghiệp so với cùng kỳ (cùng kỳ là 106 doanh nghiệp). Có 5 doanh nghiệp đăng ký hoạt động lại.

Xu hướng sản xuất kinh doanh: Đến thời điểm quý II/2024, trên địa bàn tỉnh có trên 267 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 63,41% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất tăng hơn so với quý trước, có trên 24,39% doanh nghiệp đánh giá không có biến động nhiều so với quý trước và còn lại 12,2% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất gặp khó khăn sản lượng không tăng so với quý trước. Vì vậy, theo nhận định của doanh nghiệp thì trong thời gian tới, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước tăng trưởng trở lại so với thời điểm suy thoái kinh tế thế giới trong quý II/2023, nguồn cung nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động sẵn có tại địa phương cộng thêm các tuyến đường cao tốc đang đầu tư xây dựng đi qua địa bàn tỉnh,… đó là những nguyên nhân thúc đẩy công nghiệp Hậu Giang phát triển ổn định và bền vững trong những quý tiếp theo.

5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong 6 tháng đầu năm 2024, ngành Nông nghiệp chủ yếu tập trung vào sản xuất lúa vụ Đông xuân và Hè thu, theo dõi diễn biến hạn mặn để hướng dẫn người dân các giải pháp chăm sóc, tưới nước tiết kiệm cho cây trồng. Tình hình chăn nuôi vẫn phát triển ổn định, dịch bệnh đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Kết quả cụ thể từng lĩnh vực như sau:

5.1. Nông nghiệp

5.1.1 Trồng trọt

Vụ lúa Đông xuân 2024, toàn tỉnh đã xuống giống được 74.392,2 ha, đạt 100,26% kế hoạch tỉnh (74.200 ha), giảm 1,47% so với cùng kỳ (bằng 1.109 ha). Các giống lúa sử dụng chủ yếu là RVT chiếm 14,19%, Đài Thơm 8 chiếm 55,82%, OM18 chiếm 16,26%, OM5451 chiếm 6,65%, ST24 chiếm 2,65%, còn lại chiếm 4,43% gồm các giống khác như: ST25, IR50404, Jasmine85,… Năng suất chính thức đạt 77,61 tạ/ha, tăng 0,1% (bằng 0,08 tạ/ha), đạt 103,48% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (75,00 tạ/ha). Sản lượng đạt 577.358 tấn, giảm 1,37% (bằng 8.003 tấn) so với cùng kỳ năm trước, đạt 103,75% so với kịch bản tăng trưởng (556.500 tấn). Nguyên nhân sản lượng giảm là do diện tích gieo trồng lúa năm nay giảm 1.109 ha so với cùng kỳ (75.501,2 ha).

Vụ lúa Hè thu: Tính đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh đã xuống giống dứt điểm được 74.184,9 ha, đạt 100,52% kế hoạch của tỉnh (73.800 ha), giảm 1,36% so với cùng kỳ (bằng 1.022,2 ha). Hiện một số huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đã bắt đầu thu hoạch được 3.859 ha tập trung ở huyện Châu Thành A với 2.034 ha, huyện Vị Thuỷ với 1.825 ha, các huyện còn lại đang chuẩn bị thu hoạch. Các giống lúa được sử dụng chủ yếu như: OM18 chiếm 69,6%, Đài thơm 8 chiếm 5,4%, OM5451 chiếm 21,8%, còn lại là các giống khác chiếm 3,2% như: OM380, OM34, IR50404,… Bên cạnh việc thu hoạch lúa Hè thu, một số nông dân ở huyện Châu Thành A đã tranh thủ xuống giống vụ lúa Thu Đông được 450 ha, lúa đang trong giai đoạn mạ, sinh trưởng và phát triển tốt.

Mía niên vụ 2023-2024: Diện tích gieo trồng đạt 3.216,2 ha, đạt 102,1% kế hoạch tỉnh (3.150 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 2,12% so với cùng kỳ (bằng 69,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Hiện nay đã thu hoạch được 642 ha. Giá bán mía nước ROC 16 từ 2.200 - 2.700 đồng/kg, các giống Suphen có giá từ 1.700 -1.900 đồng/kg. Diện tích còn lại, chủ yếu ở giai đoạn 6-7 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 1.753,94 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 2,07% (bằng 35,64 ha); năng suất đạt 60,6 tạ/ha, giảm 3,52% (bằng 2,21 tạ/ha); sản lượng được 5.828,84 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 7,37% (bằng 400,12 tấn). Nguyên nhân sản lượng tăng do thay đổi lịch thời vụ nên diện tích thu hoạch tăng so với cùng kỳ. Sản phẩm này đang được người dân tận dụng các diện tích đất trống, trồng nhiều để kiếm thêm thu nhập cho hộ.

Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 12.250,19 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 1,3% (bằng 161,26 ha); ước sản lượng được 149.525,34 tấn, tăng 13,71% (bằng 18.030,98 tấn). Nguyên nhân sản lượng tăng mạnh là do thời tiết thuận lợi nên năng suất tăng và do chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang loại có năng suất cao.

Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của Tỉnh so với cùng kỳ như sau:

- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.215,75 ha, tăng 3,25% (bằng 101,2 ha). Sản lượng ước được 16.871,74 tấn, tăng 7,80% (bằng 1.220,78 tấn). Nguyên nhân tăng so cùng kỳ là do hộ chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi hơn, diện tích thu hoạch và năng suất tăng.

- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.697 ha, tăng 1,63% (bằng 27,16 ha). Sản lượng ước được 4.495,59 tấn, tăng 6,78% (bằng 285,45 tấn), do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.

- Cây mít: Diện tích hiện có 10.051,83 ha, tăng 1,14% (bằng 113,23 ha). Sản lượng ước được 17.810,53 tấn, tăng 13,93% (bằng 2.178,12 tấn), do diện tích đã đến kỳ thu hoạch và năng suất tăng.

- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.879,25 ha, tăng 3,24% (bằng 90,35 ha). Sản lượng ước được 4.608,61 tấn, tăng 3,53% (bằng 157,1 tấn).

- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 713,36 ha, giảm 0,93% (bằng 6,68 ha). Sản lượng ước được 1.525,45 tấn, tăng 7,96% (bằng 112,46 tấn), do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện, người dân ngày càng có nhiều kinh nghiệm hơn trong sản xuất.

5.1.2. Chăn nuôi

Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt,… Đồng thời, thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính tháng 6/2024, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:

- Đàn trâu: Ước được 1.211 con, giảm 4,34% (bằng 55 con) so với cùng kỳ, đạt 100,0% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (1.211 con). Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp.

- Đàn bò: Ước được 4.241 con, tăng 7,42% (bằng 293 con) so với cùng kỳ, đạt 102,24% so với kịch bản tăng trưởng (4.148 con). Nguyên nhân tăng là do dịch bệnh ít xảy ra, giá bán ổn định, người chăn nuôi có lãi nên nuôi nhiều hơn.

- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 145.996 con, tăng 0,82% (bằng 1.185 con) so với cùng kỳ, đạt 100,13% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (145.811 con). Trong đó: Heo thịt 102.967 con, tăng 0,38% (bằng 388 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.

- Đàn gia cầm: Ước được 4.501,78 ngàn con, tăng 1,14% (bằng 50,71 ngàn con) so với cùng kỳ, đạt 100,02% so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (4.501,07 ngàn con). Trong đó: đàn gà 1.890,41 ngàn con, tăng 6,73% (bằng 119,14 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định và ít xảy ra dịch bệnh.

5.2. Lâm nghiệp                 

Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng. Vì vậy, tính từ đầu năm đến nay diện tích rừng trên địa bàn tỉnh luôn được bảo vệ an toàn, không xảy ra cháy rừng.

Ước tính tháng 6/2024, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 358,51 ngàn cây, giảm 1,55% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác được 797 m3, giảm 8,56%; sản lượng củi khai thác được 4.075 ste, giảm 6,87% so với cùng kỳ.

Ước tính quý II/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung được 113,50 ha, tăng 0,62% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước khoảng 2.562 m3, giảm 0,67%; sản lượng củi khai thác ước được 19.218 ste, giảm 0,98% so với cùng kỳ.

Tính chung 6 tháng năm 2024, ước số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.050,6 ngàn cây, tăng 0,94% (bằng 9,74 ngàn cây) so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước khoảng 6.016,3 m3, tăng 2,22% (bằng 130,8 m3); sản lượng củi khai thác khoảng 51.965 ste, tăng 0,4% (bằng 206,3 ste) so với cùng kỳ.

5.3. Thủy sản

Ước tính tháng 6/2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 1.967,57 ha, tăng 27,13% (bằng 419,87 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng là do người dân thả nuôi trong ruộng nhiều hơn vì bắt đầu vào mùa mưa nên lượng nước ra vào ruộng thuận lợi hơn.

Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 5.286,93 ha, tăng 1,62% (bằng 84,27 ha) so với cùng kỳ năm trước; so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (6.816 ha) bằng 77,57%, nguyên nhân thấp hơn nhiều so với kịch bản tăng trưởng là do năm nay nuôi trong ruộng lúa muộn hơn vì nắng nóng kéo dài, thiếu nước ra vào ruộng, tình hình xâm nhập mặn diễn biến phức tạp nên không mở rộng diện tích được. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 5.100,47 ha, tăng 1,27% (bằng 63,87 ha). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 81,95 ha, tăng 38,99% (bằng 22,99 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 116,72 ha, tăng 19,65% (bằng 19,17 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (thêm mô hình nuôi tôm càng xanh trong đê ngăn mặn đang phát triển); diện tích nuôi thủy sản khác 69,74 ha, tăng 1,80% (bằng 1,23 ha). Thể tích nuôi lươn được 6.489 m3, tăng 4,49% (bằng 279 m3) so với cùng kỳ.

Ước tính tháng 6/2024, tổng sản lượng thủy sản được 4.458,03 tấn, giảm 6,74% (bằng 322,13 tấn) so với cùng kỳ.

Ước tính quý II/2024, tổng sản lượng thủy sản được 14.245 tấn, tăng 6,81% so với cùng kỳ. Chia ra: Sản lượng nuôi trồng được 13.548 tấn, tăng 7,05%, sản lượng khai thác được 697 tấn, tăng 2,30% so với cùng kỳ.

Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 ước được 33.517,56 tấn, tăng 6,61% (bằng 2.078,58 tấn) so với cùng kỳ; so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh (33.803 ha) bằng 99,16%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân, sản lượng cá thát lát tăng mạnh so cùng kỳ, các loại thuỷ sản ngoài cá tra công nghiệp tăng 9,14% tương đương 1.661,33 tấn. Cụ thể như sau:

- Sản lượng thủy sản khai thác ước được 1.480,76 tấn, tăng 4,65% (bằng 65,8 tấn) so cùng kỳ. Do hộ khai thác nội địa từ khai thác thủy sản khác (lươn, ếch…) đang có chiều hướng có lợi nên tăng mạnh.

- Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước được 32.036,8 tấn, tăng 6,7% (bằng 2.012,78 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 643,65 tấn, tăng 18,74% (bằng 101,57 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 427,15 tấn, tăng 13,48% (bằng 50,75 tấn) so với cùng kỳ. Hai sản phẩm này thời gian qua đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.

6. Tình hình sản xuất công nghiệp

Ước thực hiện tháng 6/2024, giá trị sản xuất công nghiệp:

- Tính theo giá so sánh 2010, được 3.683,24 tỷ đồng, tăng 3,08% so với tháng trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước.

- Tính theo giá hiện hành, được 6.781,91 tỷ đồng, tăng 2,89% so với tháng trước và tăng 17,68% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do Công Ty Cổ Phần Thủy Sản Minh Phú Hậu Giang, mới đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động một phân xưởng quy mô trên 2.000 lao động, nên dự tính sản lượng sản xuất tháng 6 được 2.810 tấn, tăng 7,83% so với tháng trước và tăng 21,65% so với cùng kỳ năm trước; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Lạc Tỷ 2, hoạt động ngành sản xuất giày da, dự tính sản lượng sản xuất tháng 6 được 1,85 triệu đôi, tăng 51,71% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, tăng một phần là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực Sông Hậu 1, do nhu cầu sử dụng điện tăng cao trong mùa nắng nóng, nên dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 6 được 749 triệu Kwh, tăng 1,08% so với tháng trước và tăng 44,04% so với cùng kỳ năm trước. 03 doanh nghiệp trên tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trên 3.119,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 45,99% trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh và tăng 38,68% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, ước giá trị sản xuất tháng 6 tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

Ước thực hiện 6 tháng năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp:

- Tính theo giá so sánh 2010, được 19.717,01 tỷ đồng, tăng 12,82% so với cùng kỳ năm trước, đạt 95,82% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra và đạt 46,41% so với kế hoạch năm 2024.

- Tính theo giá hiện hành, được 35.780,61 tỷ đồng, tăng 15,53% so với cùng kỳ năm trước, đạt 99,06% so với kịch bản tăng trưởng 6 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra và đạt 48,01% so với kế hoạch năm 2024.

Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Năm 2024 là năm thứ tư thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 với nhiệm vụ phấn đấu cao nhất để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong bối cảnh các năm đầu của kỳ kế hoạch gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid -19 và biến động địa chính trị toàn cầu. Trên cơ sở đánh giá toàn diện bối cảnh tình hình, Đảng và Chính phủ đã đề ra các định hướng và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu của năm 2024 là tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiên trì mục tiêu tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh thời gian tới, để đạt và vượt mục tiêu kinh tế đã đề ra.

Dự tính tháng 6/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 1,15% so với tháng trước và tăng 11,99% so với cùng kỳ, đây cũng là tháng tăng trưởng so với cùng kỳ cao nhất từ đầu năm đến nay. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,19% so với tháng trước và tăng 9,84% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 0,72% so với tháng trước và tăng 41,96% so với cùng kỳ (Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 6 trên 749 triệu kwh, tăng 1,08% so với tháng trước và tăng 44,04% so với cùng kỳ năm trước, do nhu cầu sử dụng điện nhiều trong các tháng nắng nóng, nên nhà máy tăng công suất vận hành so với cùng kỳ); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 10,29% so với cùng kỳ năm trước (Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, hoạt động liên tục, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân, sản lượng sản xuất nước sạch sinh hoạt của doanh nghiệp này ước tháng 6/2024 được 1.200 ngàn M3 tăng 28,21% so với cùng kỳ năm trước). vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.

Ước tính quý II/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 15,92% so với quý trước và tăng 9,81% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng cao so với quý trước là do quý II các doanh nghiệp hoạt động nhiều hơn từ 7 đến 11 ngày so với quý I (trong tháng 02/2024 các doanh nghiệp nghỉ từ 7 đến 11 ngày để người lao động được Vui xuân đón Tết Nguyên Đán). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,42% so với quý trước và tăng 7,89% so với cùng kỳ năm trước; Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 53,6% so với quý trước và tăng 35,75% so với cùng kỳ năm trước, do nhu cầu sử dụng điện nhiều trong mùa nắng nóng, nên nhà máy nhiệt điện tăng công suất vận hành trong quý II/2024 so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với quý trước và cùng kỳ năm trước; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,22% so với quý trước và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

Dự tính 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,42% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 12,01% của 6 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 13,23% của 6 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Trong đó:

- Ngành chế biến, chế tạo: Với 267 doanh nghiệp và trên 4.212 cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp đang hoạt động sản xuất trong ngành này, là ngành chiếm tỷ trọng lớn về giá trị sản xuất trên 74,98% trong toàn ngành và chỉ số sản xuất tăng 8,41% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 6,72% của 6 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 11,22% của 6 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Cụ thể:

+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 17,38% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản, chiếm tỷ trọng trên 45,35% trong ngành chế biến thực phẩm và tăng 24,67% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty CP Minh Phú Hậu Giang, mới đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động một phân xưởng dự kiến trên 2.000 lao động, dự tính sản lượng sản xuất 6 tháng được 13.263 tấn tôm, tăng 30,21% so với cùng kỳ năm trước; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 575% so với cùng kỳ, nguyên nhân do Công ty TNHH MTV Masan HG đầu tư và đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất sữa từ cuối năm 2023, nên làm chỉ số sản xuất ngành này tăng đột biến so với cùng kỳ; sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền tăng 44,94% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

+ Sản xuất trang phục, tăng 13,62% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do trên địa bàn tỉnh hiện nay có trên 178 cơ sở cá thể công nghiệp hoạt động trong ngành may mặc, tạo ra giá trị sản xuất theo giá hiện hành trên 246 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 52,08% trong ngành sản xuất trang phục và tăng 29,46% so với cùng kỳ, do từ đầu năm đến nay các cơ sở nhận được nhiều hợp đồng gia công, lắp ráp quần áo cho các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, chỉ số ngành sản xuất trang phục tăng so với cùng kỳ.

+ Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, tăng 57,79% so với cùng kỳ năm trước, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 12.025 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất chiếm tỷ trọng trên 97,95% trong ngành này. Trong những tháng vừa qua doanh nghiệp đã nhận được nhiều hợp đồng sản xuất giày có chất lượng cao tại những thị trường truyền thống như: Canada, Đức, Hoa Kỳ, Mexico,... nên doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động để hoàn thành các hợp đồng đã ký. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.

+ Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 15,74% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do ngành này có 101 cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất 6 tháng trên 464 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 86,22% trong ngành này và tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước, do từ đầu năm đến nay các cơ sở sản xuất cửa sắt, nhôm tăng sản lượng sản xuất để phục vụ các công trình xây dựng nhà ở. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ.

- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Với 85 doanh nghiệp và trên 178 cơ sở cá thể công nghiệp hoạt động trong ngành này, sản xuất các sản phẩm chủ yếu là điện năng lượng mặt trời, nhiệt điện than và truyền tải điện năng, sản xuất nước đá, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 23,41% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 255,76% của 6 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn rất nhiều mức tăng 494,69% của 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ, là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã hoạt động ổn định nên chỉ số sản xuất không còn tăng đột biến như thời điểm mới hoạt động trong năm 2022 và năm 2023), nhưng tăng cao so với cùng kỳ là do nhu cầu sử dụng điện nhiều trong mùa nắng nóng nên nhà máy nhiệt điện tăng công suất vận hành từ tháng 4 đến nay so với cùng kỳ, dự tính sản lượng điện sản xuất 6 tháng năm 2024 được 3.646,36 triệu kwh, tăng 24,05% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ năm trước.

- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Với 9 doanh nghiệp hoạt động trong ngành này, chỉ số sản xuất tăng 9,93% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 13,99% của 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, dự tính sản lượng sản xuất 6 tháng năm 2024 được 6.996 ngàn M3, chiếm tỷ trọng 46,99% trong ngành sản xuất nước sạch sinh hoạt và tăng 18,42% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh tăng 29,20%; sản lượng nước mắm tăng 7,8%; sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 0,84%; sản lượng sản xuất giày dép các loại tăng 60,30%; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác tăng 0,7%; sản lượng điện sản xuất tăng 24,05%.

Tình hình tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tính đến thời điểm tháng 6/2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 12,49% so với tháng trước và giảm 2,2% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 tăng 0,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số tiêu thụ tăng chủ yếu ở các nhóm hàng hóa xuất khẩu là chủ yếu như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 7,15% so với cùng kỳ; chế biến và bảo quản rau quả tăng 6,42% so với cùng kỳ; sản xuất đồ uống tăng 6,11% so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 47,70% so với cùng; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 19,06% so với cùng kỳ,… Ở chiều ngược lại một số nhóm hàng hóa có chỉ số tiêu thụ giảm nhẹ so với cùng kỳ, do tính chất mùa vụ hoặc ảnh hưởng thời tiết nhưng tỷ trọng của các ngành này không đáng kể trong toàn ngành. Vì vậy, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ước tính tại thời điểm 30/6/2024, chỉ số tồn kho tăng 4,91% so với cùng thời điểm năm 2023, trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng như: Tôm đông lạnh tăng 18,59% so với cùng kỳ; bột mịn, bột thô và bột viên từ cá hay động vật giáp xác tăng 62,94% so với cùng kỳ; gạo đã xát toàn bộ hoặc sơ bộ, đã hoặc chưa đánh bóng hạt tăng 112,61% so với cùng kỳ; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 22,26% so với cùng kỳ; sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tăng rất cao so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 153,07% so với cùng kỳ; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 54,96% so với cùng kỳ,... Nhìn chung, tình hình sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng cao hơn cùng thời điểm năm trước, chỉ số tiêu thụ một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng trở lại so với cùng thời điểm năm 2023, chỉ số hàng tồn kho một số ngành xuất khẩu tăng mạnh, cho thấy hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện tại, đã mạnh dạng sản xuất hàng hóa lưu kho, sẵn sàng xuất kho khi có đơn đặt hàng từ đối tác trong nước, cũng như xuất khẩu trong những tháng cuối năm 2024.

Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/6/2024, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 0,43% so với tháng trước và tăng 0,22% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng năm 2024 tăng 1,26% so với cùng kỳ. Trong đó một số ngành sử dụng nhiều lao động nhưng có chỉ số sử dụng lao động tăng nhiều so với cùng kỳ như: Sản xuất trang phục tăng 15,05% so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 5,83% so với cùng kỳ; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 47,54%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,12%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 8,17% so với cùng kỳ,... Qua đó cho thấy lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh hết sức dồi dào và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp lớn trong khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hết sức ổn định và đã thu hút lượng lớn lao động làm ăn xa trở về tỉnh làm việc cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động của toàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng nhẹ so với cùng kỳ.

Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp ước thực hiện 6 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, để ngành công nghiệp tăng trưởng mạnh, tạo nền tảng thực hiện đạt các mục tiêu của kịch bảng tăng trưởng năm 2024 của Tỉnh, cần tập trung một số giải pháp trọng tâm sau:

- Đối với cơ quan quản lý: Cần hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm như: Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ thuế, phí xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng trong nước,…. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư như: Công ty TNHH Thức ăn Tôm Xanh Minh Phú (sản xuất thức ăn chăn nuôi); Công ty CP Tập đoàn Masan (sản xuất mì ống, bún, gia vị các loại,…), Công ty TNHH MTV Sunpro Steel (sản xuất thép),… sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra.

- Đối với doanh nghiệp: Cần chủ động nắm bắt, tận dụng cơ hội sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đơn hàng mới từ những thị trường ổn định hơn, đồng thời có các phương án thích ứng với những biến động trong tương lai; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp phụ trợ trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sẵn sàng chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại của các nước là đối tác nhập khẩu, để làm chủ thị trường trong và ngoài nước trong những năm tới.

7. Hoạt động thương mại, dịch vụ

7.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ

Bước sang tháng 6, các hoạt động sự kiện lớn như: Hiến máu “Giọt hồng trên đất Hậu Giang”, lễ Quốc tế Thiếu nhi 1/6, Tết Đoan Ngọ đồng loạt diễn ra, hoạt động một số doanh nghiệp được dự tính sẽ bắt đầu phục hồi sau những tháng đầu năm gặp khó khăn. Doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ khác được dự báo sẽ tăng nhiều so với tháng trước. Vì vậy, ước tính tháng 6/2024, tổng doanh thu thương mại và các ngành dịch vụ tiêu dùng thực hiện được 5.064,04 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 107,08% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,37%. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hoá thực hiện được 3.591,21 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 107,11% và so với cùng kỳ bằng 103,02%. Tình hình hoạt động bán lẻ hàng hóa các loại trong tháng được dự báo sẽ có mức tăng cao khoảng 7,11% so với tháng trước. Giá bán các loại hàng hóa lương thực, thực phẩm trên thị trường có mức tăng đáng kể cùng với doanh thu mặt hàng xăng dầu được kỳ vọng sẽ tăng cao trở lại do doanh nghiệp đã giải quyết được khó khăn về vốn, dự kiến tái sản xuất kinh doanh trong cuối quý II/2024, thị trường vàng được dự báo tiếp tục diễn ra sôi động, nhu cầu mua tiếp tục tăng thông qua các kênh chào bán của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, dự báo doanh thu bán lẻ hàng hoá sẽ tăng đáng kể trong tháng.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước thực hiện được 613,01 tỷ đồng1, so với tháng trước bằng 101,04% và so với cùng kỳ năm trước tăng 11,32%. Bước sang tháng 6 tốc độ tăng của ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống có phần chậm lại, dù cũng có mức tăng so với tháng trước nhưng ở mức không cao. Tuy nhiên so với cùng kỳ vẫn duy trì được ở mức cao.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 859,82 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 111,72% và so với cùng kỳ năm trước tăng 35,12%. Doanh thu các ngành dịch vụ vẫn có quy mô ổn định, các nhóm ngành không có nhiều biến động. Doanh thu hoạt động xổ số trong tháng tăng số kỳ mở thưởng nên có mức tăng cao so với tháng trước góp phần làm tăng đáng kể tốc độ tăng trưởng chung. So với cùng kỳ các ngành dịch vụ chi tiết đều có mức tăng cao trong đó chủ yếu hoạt động dịch vụ xổ số kiến thiết có mức tăng cao là ngành đóng góp chủ yếu thúc đẩy tăng tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành dịch vụ tiêu dùng trong tháng.

Ước tính quý II/2024, tổng doanh thu bán lẻ và các ngành dịch vụ thực hiện được 14.596,94 tỷ đồng, so với quý trước bằng 98,04% và so với cùng kỳ năm trước bằng 103,23%. Tình hình hoạt động bán lẻ trong quý II/2024 nhìn chung có nhiều biến động và kém sôi động hơn quý đầu tiên của năm nhưng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ tiêu dùng khác tiếp tục giữ đà tăng ổn định đóng góp tích cực vào mức tăng chung, giữ toàn ngành đạt mức tăng ổn định so với cùng kỳ. Cụ thể:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa được 10.427,15 tỷ đồng, so với quý trước bằng 96,42% và so với cùng kỳ năm trước bằng 99,15%. Thị trường bán lẻ hàng hóa trong quý II có nhiều biến động, tốc độ tăng quy mô doanh thu của các cơ sở kinh doanh diễn biến khó lường (tăng giảm đột biến qua các tháng). Hoạt động kinh doanh của các cơ sở trên địa bàn diễn ra có phần kém sôi động hơn so với quý trước và quy mô doanh thu có phần sụt giảm nhẹ so với cùng kỳ.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 1.829,59 tỷ đồng2, so với quý trước bằng 99,79% và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,07%. Tình hình kinh doanh hoạt động lưu trú, ăn uống của các cơ sở trên địa bàn trong quý II giữ được sự ổn định về doanh thu và mức tăng trưởng qua từng tháng. Trong quý này trên địa bàn cũng diễn ra các sự kiện ý nghĩa và có quy mô tương đối lớn so với quý I, giá bán các sản phẩm ăn uống tại một số cơ sở đã có sự tăng giá do giá nguyên liệu đầu vào phục vụ chế biến tăng lên.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 2.340,19 tỷ đồng, so với quý trước bằng 104,44%, so với cùng kỳ năm trước bằng 116,66%.

Ước tính 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 29.485,36 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,44%, so với kịch bản tăng trưởng tỉnh bằng 102,41%. Trong 6 tháng đầu năm, tổng quy mô doanh thu chung vẫn có sự tăng trưởng nhưng với tốc độ còn khiêm tốn đạt 7,44% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 6 tháng của năm 2023 là 15,48%. Doanh thu các loại hình dịch vụ tiếp tục giữ được mức tăng trưởng cao trong khi hoạt động bán lẻ (chiếm tỷ trọng 70%) có mức tăng chậm lại so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do sự biến động trong hoạt động kinh doanh đến từ một vài doanh nghiệp xăng dầu quy mô lớn chiếm tỷ trọng gần 20% tổng doanh thu bán lẻ có doanh thu giảm nhiều so cùng kỳ năm 2023 (ước giảm khoảng 46% bằng 1,4 tỷ đồng). Cụ thể như sau:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 21.241,37 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 103,99%. Cơ cấu tổng thể các nhóm hàng vẫn không thay đổi. Các nhóm hàng lương thực, thực phẩm, xăng dầu, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng vẫn là những nhóm hàng chủ lực chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu bán lẻ. Dự tính trong 6 tháng đầu năm tốc độ tăng trưởng giữa các nhóm hàng theo chiều hướng tăng giảm khác nhau và biến động hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2023. Lương thực, thực phẩm là nhóm hàng lớn nhất trong hoạt động bán lẻ đã có tốc tăng chậm lại ở mức 8,57% so với cùng kỳ (năm 2023 là 38,37%); Đồ dùng trang thiết bị gia đình tăng 17,50%, vật liệu xây dựng giảm 19,08%; vàng bạc đá quý tăng 28,42% và hàng hóa khác giảm 10,65%. Số lượng cơ sở cá thể và doanh nghiệp lớn, hoạt động thương mại của các nhóm hàng bán lẻ trong 6 tháng đầu năm được xem là có sự biến động nhiều so với các ngành lĩnh vực khác. Giá trị doanh thu tạo ra giữa các tháng không ổn định, nhiều cơ sở có mức tăng cao đột biến do có nhiều đơn hàng, cũng có nhiều cơ sở có doanh thu giảm mạnh do ảnh hưởng các yếu tố giá cả thị trường, yếu tố cung cầu hàng hóa đang kinh doanh, nguồn hàng nhập khẩu từ bên ngoài bị đứt gãy, vốn hóa gặp khó khăn. Nhưng về tổng thể, tổng giá trị doanh thu bán lẻ so với cung kỳ vẫn giữ được mức tăng nhưng với tốc độ không cao, chỉ đạt 3,99% thấp hơn nhiều so với mức 14,88% của năm 2023.

- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 3.663,04 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,68%. Trong đó:

+ Ngành lưu trú, ước tính được 150,62 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 33,43%.

+ Ngành ăn uống, ước tính được 3.512,42 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,06%.

- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 4.580,94 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,07%. Tổng doanh thu các ngành dịch vụ nhìn chung trong 6 tháng đầu năm là hoạt động có mức tăng trưởng cao và có mức đóng góp nhiều vào tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành thương mại và dịch vụ. Quy mô các ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Trong 6 tháng đầu năm 2024, hầu hết các nhóm ngành dịch vụ đều có tốc độ tăng khá so với cùng kỳ năm 2023. Dịch vụ vui chơi, giải trí (ngành R) tăng 7,67%, đây là ngành dịch vụ trọng yếu có quy mô doanh thu lớn nhất, dịch vụ y tế tăng 76,50%; dịch vụ hành chính hỗ trợ tăng 29,26%; dịch vụ giáo dục tăng 24,71%; dịch vụ khác phục vụ cá nhân và gia đình tăng 50,97%. Riêng hoạt động kinh doanh bất động sản (chủ yếu là dịch vụ môi giới, bán đất nền) so với cùng kỳ vẫn ở mức giảm 7,82%, mức giảm đã giảm nhiều so với mức 15,58% của thời điểm 5 tháng năm 2024, nguyên nhân do trong tháng 5 doanh thu kinh doanh đất nền của các doanh nghiệp bất ngờ tăng cao đột biến, tăng 484,61% so với tháng 4 nhưng trong 6 tháng đầu năm ngành này vẫn giảm so với cùng kỳ năm 2023.

7.2. Tình hình xuất nhập khẩu

Ước thực hiện tháng 6/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 100.045 nghìn USD, so với tháng trước bằng 93% và so với cùng kỳ năm trước bằng 75,41%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 74.138 nghìn USD, so với tháng trước bằng 94,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 83,16%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 25.907 nghìn USD, so với tháng trước bằng 90,23% và so với cùng kỳ năm trước bằng 59,52%.

Ước thực hiện quý II/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 302.446 nghìn USD, so với quý trước bằng 117,69%, so với cùng kỳ năm trước bằng 87,64%, so với kịch bản tăng trưởng quý II/2024 của tỉnh đạt 91,05%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 213.989 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 94,09%, so với kịch bản tăng trưởng quý II/2024 của tỉnh đạt 106,77% .

- Nhập khẩu ước thực hiện được 79.345 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 73,76%, so với kịch bản tăng trưởng quý II/2024 của tỉnh đạt 65,55% .

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 99 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 126,92%, so với kịch bản tăng trưởng quý II/2024 của tỉnh đạt 39,60%.

  - Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 9.013 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 88,99%, so với kịch bản tăng trưởng quý II/2024 của tỉnh đạt 86,12%.

Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 559.437 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 93,54%, so với kế hoạch năm đạt 44,12% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 90,19%. Chia ra:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 403.444 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,96%, so với kế hoạch năm đạt 50,06% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 109,32%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 136.255 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 66,58%, so với kế hoạch năm đạt 32,60% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 59,18%.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 183 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,67%, so với kế hoạch năm đạt 18,30% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 31,83%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 19.555 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 99,94%, so với kế hoạch năm đạt 45,48% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 95,64%.

Ước tính giá trị xuất đi 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ 7,96%; nhập khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ giảm 33,42% chủ yếu do ảnh hưởng của các nhóm hàng như: Nguyên liệu giấy các loại (chiếm tỷ trọng 29,59%) giảm 36,81% (bằng 23.482 nghìn USD), hàng hóa khác (chiếm tỷ trọng 16,13%) giảm 8,67% (bằng 2.087 nghìn USD), hóa chất (chiếm tỷ trọng 15,61%) giảm 38,91% (bằng 13.547 nghìn USD), xăng dầu các loại (chiếm tỷ trọng 1,26%) giảm 93,05% )bằng 22.928 nghìn USD), ....

Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp 6 tháng đầu năm 2024 giảm so với cùng kỳ năm trước 6,68% chủ yếu là do giá trị nhập khẩu hàng hóa giảm 33,42% (bằng 68.386 nghìn USD), giá trị xuất khẩu vẫn ổn định và tăng trưởng. Trong đó các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng cao hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (trong nước chiếm 50,81%, doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 49,19% tổng giá trị chung). Về mức tăng trưởng ở mỗi khu vực, mặc dù số lượng doanh nghiệp FDI ít hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước nhưng giá trị xuất khẩu mà doanh nghiệp tạo ra gần tương đương so với doanh nghiệp trong nước.

Về thị trường xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2024, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 69 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu giảm 3 quốc gia (bằng 95,83% so cùng kỳ). Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp không có sự thay đổi nhiều so với năm trước, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là Châu Á (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) chiếm giá trị lớn nhất, Châu Mỹ (trong đó khu vực Bắc Mỹ) là chủ yếu, Châu Âu khu vực các nước khối liên minh Châu Âu (EU) là chủ yếu. Giá trị xuất khẩu của các khu vực này có sự tăng giảm lẫn nhau so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá trị xuất khẩu của các khu vực trên so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: khu vực Châu Á giảm 8,98% (chiếm tỷ trọng 42,32%), khu vực Châu Âu tăng 143,83% (chiếm tỷ trọng 27,24%), Châu Mỹ giảm 18,03% (chiếm tỷ trọng 23,07%), đây là khu vực xuất khẩu có giá trị giảm nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2024 (giảm 20.466 nghìn USD) so với cùng kỳ năm trước; còn lại là các khu vực khác (chiếm tỷ trọng 7,38%).

Trong 6 tháng đầu năm 2024 một số thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng lớn có quan hệ giao thương với các doanh nghiệp trên địa bàn có mức tăng trưởng trở lại so với cùng kỳ năm trước, trong đó thị trường Singapo tăng 9,62%, Nhật Bản tăng 15,57%. Tuy nhiên, thị trường Hoa Kỳ giảm 27,60%, Trung Quốc giảm 28,15% so với cùng kỳ. Hà Lan là thị trường xuất khẩu chủ yếu giày thể thao và hàng thủy sản các loại có tăng trưởng vượt bậc trong 6 tháng đầu năm (vươn lên chiếm tỷ trọng 13,63%). Ngoài các thị trường trên thì tổng chung tất cả các thị trường còn lại vẫn có mức tăng trưởng ổn định. Do đó, đã giúp tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa trực tiếp chung 6 tháng đầu năm vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 7,96%.

7.3. Vận tải hàng hóa và hành khách

Ước tính tháng 6/2024, tổng doanh thu dịch vụ vận tải và kho bãi được 128,53 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,66% và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,09%. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 78,83 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 99,05% và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,40%. Tốc độ tăng so với cùng kỳ của hoạt động vận tải đường bộ đã giảm đi nhiều so với tốc độ tăng bình quân của những tháng đầu năm do doanh nghiệp vận tải hàng hóa có doanh thu lớn đã giải thể từ tháng 4, không còn tạo ra được doanh thu đóng góp cho ngành đường bộ như trong 3 tháng đầu năm.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 28,08 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,27% và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,83%. Nguyên nhân giảm là giá trị doanh thu vận chuyển hàng hóa đường thủy nội địa của các doanh nghiệp giảm 40,35% so với cùng kỳ, do không kịp thời ký được các đơn hàng mới.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 21,62 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 106,09% và so với cùng kỳ năm trước bằng 56,07%. Nguyên nhân giảm nhiều so với cùng kỳ là do Công ty dịch vụ logistic An Hưng (bình quân 10 tỷ/tháng) giải thể không còn hoạt động. Tổng doanh thu chung toàn hoạt động dịch vụ doanh nghiệp này đã đóng góp gần 40% giá trị.

Ước thực hiện quý II/2024, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 379,40 tỷ đồng, so với quý trước bằng 83,98% và so với cùng kỳ năm trước bằng 92,29%. Tình hình hoạt động dịch vụ vận tải kho bãi trong tháng 5 có nhiều biến động ảnh hưởng lớn đến quy mô doanh thu của toàn ngành làm doanh thu trong quý II/2024 giảm so với quý trước. Doanh thu vận chuyển hàng hóa đường bộ và doanh thu dịch vụ logistics là những nhóm ngành giảm nhiều nhất. Các doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa đường bộ và hoạt động dịch vụ logistics có quy mô lớn bất ngờ giải thể ngừng hoạt động. Kết quả doanh thu toàn ngành vận tải bị ảnh hưởng và giảm quy mô so với các tháng đầu năm tương đương bình quân giảm 11,52% tổng giá trị. Cụ thể:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 234,44 tỷ đồng, so với quý trước bằng 87,52% và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,56%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 83,86 tỷ đồng, so với quý trước bằng 89,41% và so với cùng kỳ năm trước bằng 91,91%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 61,10 tỷ đồng, so với quý trước bằng 67,79% và so với cùng kỳ năm trước bằng 55,70%.

Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 831,18 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 103,45%. Trong tháng 6, giá trị doanh thu vận tải kho bãi được dự báo tiếp tục sẽ giảm so với cùng kỳ năm 2023 do hoạt động vận chuyển hàng hóa đường thủy và doanh thu dịch vụ logistics có khả năng chưa phục hồi, quy mô doanh thu được tạo ra không bằng năm 2023. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng doanh thu toàn ngành vận tải trong 6 tháng đầu năm có phần sẽ chậm lại và đạt không cao. Cụ thể:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 502,29 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,80%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 177,66 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 96,39%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 151,23 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 77,04%.

Nhìn chung, tình hình hoạt động ngành vận tải, kho bãi trong 6 tháng đầu năm không có sự tăng trưởng đồng đều ở 2 quý. Nếu quý I/2024 tổng quy mô doanh thu vẫn giữ được đà tăng trưởng tốt và ở mức khá cao thì hoạt động trong quý II/2024 lại có nhiều biến động doanh thu giảm nhiều kéo tốc độ tăng chậm lại và đạt thấp so với cùng kỳ. Qua 6 tháng, doanh thu vận chuyển giảm ở 2 loại hình, vận chuyển hàng hóa đường thủy và dịch vụ logistics lần lượt ở mức 3,61% và 22,96% so với cùng kỳ năm 2023. Kết quả, tổng doanh thu chung tăng trưởng thấp chỉ còn đạt mức 3,45%.

7.3.1 Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa

Ước thực hiện tháng 6/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 360,53 nghìn tấn hàng hóa các loại (57.778,85 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,22% (99,68%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 76,01% (71,90%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 85,65 nghìn tấn (11.892,35 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 99,41% (87,92%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 74,98% (63,72%).

- Đường sông thực hiện được 274,88 nghìn tấn (45.886,50 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,79% (101,92%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 76,33% (74,38%).

Ước thực hiện quý II/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 1.112,22 nghìn tấn hàng hóa các loại (182.206,20 nghìn tấn.km), so với thực hiện quý trước bằng 79,03% (76,54%) và so với quý cùng kỳ năm trước bằng 77,37% (74,57%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 255,22 nghìn tấn (38.437,31 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 71,62% (68,54%) và so với quý cùng kỳ năm trước bằng 73,68% (68%).

- Đường sông thực hiện được 857,01 nghìn tấn (143.768,89 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 81,54% (79%) và so với quý cùng kỳ năm trước bằng 78,55% (76,55%).

Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh vận chuyển được 2.519,64 nghìn tấn hàng hóa các loại (420.264,89 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 85,77% (89,51%). Trong đó:

- Đường bộ thực hiện được 611,57 nghìn tấn (94.517,16 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 87,27% (83,76%).

- Đường sông thực hiện được 1.908,06 nghìn tấn (325.747,74 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 85,30% (91,34%).

7.3.2 Vận chuyển, luân chuyển hành khách

Ước thực hiện tháng 6/2024, toàn tỉnh thực hiện được 2.244,65 nghìn lượt hành khách (55.066,91 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 99,78% (98,81%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 94,93% (110,23%). Trong đó:

- Đường bộ vận chuyển được 230,45 nghìn lượt hành khách (48.448,83 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 98,67% (98,73%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,85% (111,85%).

- Đường sông vận chuyển được 2.014,20 nghìn lượt hành khách (6.618,07 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 99,91% (99,43%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,31% (99,69%).

Ước thực hiện quý II/2024, toàn tỉnh thực hiện được 6.798,94 nghìn lượt hành khách (163.422,22 nghìn HK.km), so với quý trước bằng 91,72% (101,01%) và so với quý cùng kỳ năm trước bằng 95,63% (113,87%). Trong đó:

- Đường bộ vận chuyển được 683,41 nghìn lượt hành khách (142.946,35 nghìn HK.km), so với quý trước bằng 101,58% (101,75%) và so với quý cùng kỳ năm trước bằng 114,49% (115,51%).

- Đường sông vận chuyển được 6.115,53 nghìn lượt hành khách (20.475,87 nghìn HK.km), so với quý trước bằng 90,73% (96,11%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 93,90% (103,62%).

Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh thực hiện được 14.212,02 nghìn lượt hành khách (325.213,53 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 95,96% (112,91%). Trong đó:

- Đường bộ vận chuyển được 1.356,18 nghìn lượt hành khách (283.434,04 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 114,98% (114,72%).

- Đường sông vận chuyển được 12.855,84 nghìn lượt hành khách (41.779,49 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 94,32% (101,99%).

8. Các vấn đề về xã hội

8.1. Giáo dục

Toàn ngành có 313 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường (không kể 05 trường tư thục); tiểu học có 145 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở (THCS) có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam và 23 trường trung học phổ thông (THPT), trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh, có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh, 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.

Quy mô học sinh năm học 2023-2024: Huy động học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông là 157.829/158.100, đạt 99,82%, cụ thể như sau:

- Giáo dục Mầm non:

+ Nhà trẻ: 3.661/2.900, đạt tỉ lệ 126,24%.

+ Mẫu giáo: 25.473/24.700, đạt tỉ lệ 103,19%.

- Giáo dục phổ thông:

+ Tiểu học: 62.406/65.500 đạt tỉ lệ 95,27%.

+ THCS: 45.600/45.550, đạt tỉ lệ 100,11%.

+ THPT: 20.689/19.450, đạt tỉ lệ 106,37%.

Trong tháng, toàn ngành tập trung vào một số công tác chuyên môn sau:

- Phê duyệt kế hoạch tuyển sinh năm học 2024-2025 Trường Dạy trẻ khuyết tật tỉnh.

- Hướng dẫn các đơn vị thi tuyển sinh 10 THPT, THPT chuyên năm học 2024-2025; tuyển vào lớp 10 dân tộc thiểu số trường PTDTNT Tỉnh năm học 2024-2025.

- Tổ chức tập huấn sử dụng sách giáo khoa lớp 5, 9, 12 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

- Hướng dẫn sơ kết giai đoạn II triển khai thực hiện Đề án Tăng cường tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ của trẻ.

- Chuẩn bị tốt cho kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2024.

- Phát động Cuộc thi tuyên truyền viên giỏi bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu năm 2024.

- Tổ chức thẩm định Tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Hậu Giang lớp 5, 9 và lớp 12.

8.2. Tình hình văn hóa, thể thao

Trong 6 tháng đầu năm, toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tập trung tuyên truyền ý nghĩa các ngày Lễ lớn của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là Mừng Đảng- Mừng Xuân 2024, kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2024), kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2024),… Kết quả: In mới và lắp đặt: 19.946,35m2 panô các loại, treo hơn 23.740 cờ các loại, 1.160 băng rol. Thay mới nội dung trên hệ thống pa nô cố định do tỉnh quản lý. Các Đội tuyên truyền lưu động sáng tác, dàn dựng 20 kịch bản, biểu diễn 480 buổi, phục vụ 285.400 lượt người xem; tổ chức phóng thanh 494 buổi.

Đoàn Ca Múa nhạc dân tộc thực hiện tốt chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị như: Chương trình nghệ thuật chào năm mới 2024; chương trình nghệ thuật phục vụ Lễ hội giao thừa năm 2024, kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,… với 54 suất diễn, phục vụ 33.650 lượt người xem.

Phòng Phát hành phim và chiếu bóng thực hiện ghi hình các sự kiện của ngành và thực hiện các nhiệm vụ khác theo chỉ đạo; tổ chức chiếu phim tuyên truyền phục vụ nhân dân tại cơ sở; tổ chức được 74 buổi, phục vụ 24.000 lượt người xem.

Hoạt động thư viện:

- Phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh triển khai con đường sách, con đường triển lãm ảnh nghệ thuật, mỹ thuật tỉnh Hậu Giang và đồng bằng sông Cửu Long từ ngày 29/12/2023 - 02/01/2024 tại đường Trần Hưng Đạo, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Qua đó trưng bày, triển lãm 5.000 quyển sách với các chủ đề: Sách viết về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; sách viết về Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh; sách chuyên đề về mừng Đảng, mừng Xuân Giáp Thìn 2024; sách quý, sách hay. Bên cạnh đó, phục vụ sách bằng xe ô tô Thư viện lưu động đa phương tiện với các loại sách mới, sách thiếu nhi, kết hợp phục vụ máy tính truy cập internet hỗ trợ bạn đọc tra cứu thông tin miễn phí. Qua đợt triển lãm, đã thu hút khoảng 7.000 lượt người đến tham quan. Triển lãm, giới thiệu báo Xuân của Trung ương và địa phương, đọc trực tuyến trên website http://baoxuanhaugiang.vuc.vn

- Tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam lần thứ 3 năm 2024, thu hút trên 5.850 lượt người tham gia, đọc sách với các hoạt động: Triển lãm 1.500 quyển sách tại chỗ và 2.000 quyển sách trên xe Thư viện lưu động đa phương tiện với các chủ đề: Chuyên đề về Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; Sách về Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Sách về biển đảo Việt Nam; Sách viết về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội tỉnh Hậu Giang; Sách thiếu nhi và sách mới các lĩnh vực; tổ chức 02 cuộc thi về Sách: Cuộc thi Vẽ tranh theo sách dành cho thiếu nhi và cuộc thi Tìm hiểu kiến thức qua sách, báo cho học sinh Trung học phổ thông.

- Tổ chức triển lãm 500 quyển sách hưởng ứng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 năm 2024, tại Trung tâm Văn hóa tỉnh, thu hút trên 500 lượt người xem.

- Phối hợp Thư viện huyện Long Mỹ tổ chức triển lãm 1.750 quyển sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện và trưng bày tại gian triển lãm nhân kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1980 - 19/5/2024), từ ngày 16-17/5/2024 tại Di tích lịch sử - văn hóa Đền thờ Bác Hồ (xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ).

Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức 24 cuộc triển lãm ảnh phục vụ các sự kiện: Festival ngành hàng hoá gạo Việt Nam - Hậu Giang; Triển lãm hình ảnh phục vụ Hội báo xuân Giáp Thìn năm 2024 và Lễ kỷ niệm 94 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (03/02/1930 – 03/02/2024); triển lãm ảnh tại Trung tâm Hội Nghị tỉnh, di tích Chiến thắng Chương Thiện, thành phố Vị Thanh và Trung tâm Văn hóa huyện Châu Thành phục vụ các hoạt động “Mừng Đảng quang vinh, Mừng Xuân Giáp Thìn năm 2024”;… Tiếp 136 đoàn khách tham quan tại các di tích Chiến thắng Chương Thiện tai thành phố Vị Thanh; Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ,... Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube  Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 102.926 lượt người. Trong 6 tháng đầu năm 2024 đã sưu tầm 180 hiện vật đạt 56,25% so với kế hoạch năm 2024.

Lĩnh vực thể dục thể thao: Tổ chức các giải thể thao “Mừng Đảng quang vinh - Mừng xuân Giáp Thìn” năm 2024, gồm 5 giải: Aerobic, Quần vợt, Đua thuyền rồng, Lân Sư Rồng tỉnh Hậu Giang mở rộng và giải kickboxing tỉnh Hậu Giang mở rộng. Tham gia 25 giải, đạt 15 Huy chương Vàng, 25 Huy chương Bạc, 28 Huy chương Đồng.

8.3. Lao động và an sinh xã hội

8.3.1. Tình hình lao động và giải quyết việc làm

Lực lượng lao động (LLLĐ): LLLĐ bao gồm những người đang làm việc và thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên. Trong quý II/2024, LLLĐ trên địa bàn toàn Tỉnh ước khoảng 571.140 người. So với quý I/2024, LLLĐ giảm 744 người. Dự báo xu thế trong thời gian tới, trên địa bàn Tỉnh không phát sinh thêm các khu công nghiệp. Vì vậy LLLĐ, trong đó lao động có việc làm sẽ không tăng/giảm đột biến mà chỉ tiếp tục tăng nhẹ để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh ở địa phương.

Lao động có việc làm: Trong quý II/2024, toàn tỉnh ước có khoảng 447.493 lao động có việc làm (trong đó, lao động có việc làm trong nhóm ngành nông-lâm-thủy sản có 274.646 người, chiếm tỷ trọng 61,38%; nhóm ngành công nghiệp-xây dựng có 64.993 người, chiếm tỷ trọng 14,52%; nhóm các ngành dịch vụ có 107.854 người, chiếm tỷ trọng 24,10%). Lao động có việc làm trong các ngành kinh tế có xu hướng tăng do các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi và phát triển tốt nên cung ứng nhiều việc làm cho thị trường lao động. Hiện nay, Tỉnh tiếp tục kêu gọi và tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Dự báo xu thế trong thời gian tới, trên địa bàn tỉnh không phát sinh thêm các khu công nghiệp, vì vậy lao động có việc làm sẽ không tăng/giảm đột biến mà chỉ tiếp tục tăng nhẹ để đáp ứng nguồn cung việc làm ở địa phương.

Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động: Trong quý II/2024, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước 1,65% (năm 2023 là 2,01%). Trong quý, toàn Tỉnh ước có 2.730 người trong độ tuổi lao động có việc làm nhưng theo kết quả khảo sát, họ vẫn muốn và sẵn sàng làm thêm giờ hoặc làm thêm một công việc khác để tăng thêm thu nhập. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý II/2024 chiếm tỷ lệ tương đối thấp cho thấy nền kinh tế và thị trường lao động của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực; các hoạt động sản xuất kinh doanh đã phục hồi và phát triển tốt nên đã tạo ra nhiều việc làm và thu hút lao động, đó là lý do chính làm cho tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần trong thời gian qua. Hiện nay, lao động qua đào tạo có bằng hoặc chứng chỉ của tỉnh hiện nay còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao, trong khi nhu cầu của người sử dụng lao động đòi hỏi phải là công nhân lành nghề, có tay nghề cao, đây là điều mà các cấp lãnh đạo Tỉnh đang quan tâm và có hướng đào tạo nghề, giúp cho người lao động có điều kiện hoàn thiện tay nghề và đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc, qua đó góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong những năm tới.

Tình hình giải quyết việc làm: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 13.577 lao động, đạt 90,51% kế hoạch năm, tăng 36,76% so với cùng kỳ.

8.3.2. Tình hình an sinh xã hội

Tỉnh đã hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng với tổng số tiền là 35.036 triệu đồng, chủ yếu là trợ cấp, phụ cấp thường xuyên, không có trợ cấp bất thường. So với quý trước giảm 1,64%.

Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại các chương 2,3,4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 80.790,80 triệu đồng, so với quý trước giảm 7.977 triệu đồng (giảm khoảng 8,99%). Chủ yếu giảm từ nguồn vận động hỗ trợ do quý I/2024 rơi vào dịp Tết Nguyên Đán, nguồn vận động nhiều.

Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 60.096,33 triệu đồng, chủ yếu là hỗ trợ trong quý I (dịp lễ Tết Nguyên Đán), so với 6 tháng năm 2023 tăng 8.787,28 triệu đồng (tăng khoảng 17,13%). Nguyên nhân do tỉnh thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ giảm nghèo và vận động xã hội hoá.

Không có hỗ trợ tình hình đột biến, bất thường, nổi bật khác phát sinh tại địa phương.

8.4. Y tế

Trong tháng, có 17 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tương đương với tháng trước, cộng dồn là 109 ca, giảm 377 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 54 ca mắc mới, tăng 16 ca so với tháng trước, cộng dồn là 573 ca, tăng 428 ca so với cùng kỳ; bệnh sốt phát ban/nghi sởi có 01 ca mắc mới, cộng dồn là 02 ca, tăng 02 so với cùng kỳ; bệnh đậu mùa khỉ có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút có 10 ca mắc mới, cộng dồn là 46 ca, tăng 41 ca so với cùng kỳ; bệnh Viêm não Nhật Bản có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.

Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 926 trẻ, cộng dồn là 4.281 trẻ, đạt 41,9%. Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 844 thai phụ, cộng dồn là 4.039 thai phụ, đạt 39,5%. Tiêm tiêm Sởi – Rubella (Sởi 2) trong tháng là 925 trẻ, cộng dồn là 4.636 trẻ, đạt 43,9%. Tiêm mũi 3 viêm não Nhật Bản trong tháng là 1.142 trẻ, cộng dồn là 3.845 trẻ, đạt 36,3%.

Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 11 ca, cộng dồn là 69 ca (tăng 32 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.099 ca (số đang quản lý 1.149 ca); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 616 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 56 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.073 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 641 lượt, cộng dồn là 3.860 lượt.

Kết quả thực hiện khám, chữa bệnh đến tháng 6/2024: Tổng số lần khám là 155.075 lượt, cộng dồn là 857.991 lượt, đạt 55,61% kế hoạch, tăng 9,64% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 10.197 lượt, cộng dồn là 58.224 lượt, đạt 43,58% kế hoạch, tăng 2,55% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,20 ngày, tăng 0,21 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 5.023 trường hợp, tăng 148 trường hợp so với cùng kỳ.

8.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông

Trong tháng 6/2024, toàn tỉnh xảy ra 20 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 11 người, bị thương 14 người. So với tháng 5/2024, số vụ tăng 08 vụ, số người chết tăng 07 người, số người bị thương tăng 05 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 10 vụ, số người chết tăng 02 người, số người bị thương tăng 10 người. Nguyên nhân do đi không đúng phần đường là 02 vụ, vượt không đảm bảo an toàn là 02 vụ, chuyển hướng là 01 vụ, đang xác minh làm rõ 15 vụ.

Trong 6 tháng đầu năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/6/2024), toàn tỉnh xảy ra 80 vụ tai nạn giao thông, làm chết 37 người, bị thương 55 người. So cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 18 vụ, số người chết giảm 21 người, số người bị thương tăng 41 người. Trong đó, tai nạn giao thông đường thủy xảy ra 01 vụ, bị thương 01 người; so với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 01 vụ, số người chết tương đương, số người bị thương tăng 01 người.

8.6. Tình hình thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

- Tình hình thiên tai:

+ Sạt lở, sụt lún đất: Trong tháng, xảy ra 7 vụ sạt lở, sụt lún đất, diện tích mất đất là 1.015m2, ước giá trị thiệt hại là 615 triệu đồng. So với tháng trước tăng 5 vụ, ước số tiền thiệt hại tăng 471 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ sạt lở giảm 20 vụ, ước giá trị thiệt hại giảm 2.292 triệu đồng. Tích luỹ từ đầu năm, xảy ra 22 vụ sạt lở, ước giá trị thiệt hại 3.026 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước giảm 23 vụ, ước giá trị thiệt hại giảm 1.193 triệu đồng.

+ Giông lốc: Trong tháng xảy ra 2 vụ giông lốc làm 01 căn nhà bị sập và 7 căn nhà bị hư hại, ước thiệt hại 29 triệu đồng; so với tháng trước tăng 2 vụ; so với cùng kỳ năm trước số vụ bằng nhau, số nhà sập bằng nhau, số nhà hư hại tăng 6 căn, ước thiệt hại giảm 23 triệu đồng. Tích luỹ từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 2 vụ giông lốc làm 01 căn nhà bị sập và 7 căn nhà bị hư hại, ước thiệt hại 29 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước số vụ bằng nhau, số nhà sập bằng nhau, số nhà hư hại tăng 6 căn, ước thiệt hại giảm 23 triệu đồng.

Trong tháng, phát hiện 01 vụ vi phạm môi trường, xử lý 01 vụ, số tiền xử phạt là 90 triệu đồng. So với tháng trước số vụ phát hiện tăng 01 vụ, số vụ xử lý bằng nhau, số tiền xử phạt tăng 88,90 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước, số vụ vi phạm giảm 02 vụ, số vụ xử lý giảm 01 vụ, số tiền xử phạt tăng 80 triệu đồng. Tích lỹ từ đầu năm đến nay, đã phát hiện và xử lý 09 vụ (trong đó nhắc nhở 06 vụ, xử phạt 03 vụ, với số tiền 106,10 triệu đồng). So với cùng kỳ năm 2023, số vụ phát hiện giảm 16 vụ, số vụ xử lý giảm 14 vụ, số tiền xử phạt giảm 369,70 triệu đồng.

Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 01 vụ cháy, nổ, ước tính thiệt hại khoảng 130 triệu đồng./.

[1] Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 25,56 tỷ đồng, so tháng trước bằng 103,45% và so với cùng kỳ tăng 19,25%; Ngành ăn uống ước tính được 587,46 tỷ đồng, so tháng trước bằng 100,94% và so cùng kỳ năm trước tăng 11%.

[2] Trong đó: Ngành lưu trú, doanh thu ước thực hiện được 74,80 tỷ đồng so với quý trước bằng 98,66% và so với cùng kỳ năm trước bằng 123,38%; Ngành ăn uống, doanh thu ước thực hiện được 1.754,79 tỷ đồng so với quý trước bằng 99,84% và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,67%.


Bao cao KTXH Thang 6.2024.doc Tải về
So lieu KTXH Thang 6.2024.xlsx Tải về

Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác