Thứ tư, 28/5/2025
°C

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Tuyên Quang

Ngày 29/06/2024 - 10:29:00 | 572 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Năm 2024, là năm bản lề, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và năm 2024 cũng được coi là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

Với quyết tâm cao trong lãnh chỉ đạo và điều hành, căn cứ vào các Kết luận, Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Ngay từ đầu năm, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, sự điều hành tập trung, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp của Chính phủ về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024; triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, duy trì và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định hệ thống tài chính; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn, khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư được củng cố.

Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, kinh tế của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án trọng điểm trên địa bàn còn chậm; hoạt động doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn thách thức, số doanh nghiệp rút khỏi thị trường còn cao; xuất, nhập khẩu đối mặt với nhiều thách thức, do suy giảm nhu cầu ở các thị trường xuất khẩu lớn của tỉnh, làm cho các sản phẩm xuất khẩu hàng hóa chủ lực giảm, ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; một số diện tích cây trồng bị sâu bệnh gây hại làm ảnh hưởng đến năng suất; bệnh dịch tả lợn Châu Phi tái phát tại một số huyện trên địa bàn tỉnh; chăn nuôi gia cầm còn gặp khó do thị trường bấp bênh, thị trường tiêu thụ không ổn định; tình hình thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp, cùng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã gây thiệt hại không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh,...nhu cầu đầu tư phát triển trong tỉnh lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp.

Kết quả đạt được cụ thể ở các ngành, lĩnh vực như sau:

I.  PHÁT TRIỂN KINH TẾ  

1. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2024

1.1. Tốc độ tăng trưởng GRDP trên địa bàn (giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm 2024

Tốc độ tăng trưởng GRDP (giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh tăng 8,84% so với cùng kỳ năm 2023, tiếp tục có xu hướng tăng trưởng tích cực (quý I tăng 9,12%, quý II tăng 8,6%), đây cũng là mức tăng trưởng tương đối ấn tượng trong bối cảnh kinh tế cả nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể của các lĩnh vực như sau: p

1.1.1. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 5,21%; đóng góp 1,33 điểm phần trăm trong mức tăng chung của GRDP. Trong đó: Ngành nông nghiệp tăng 5,16%, đóng góp 0,96 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 5,17%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 6,54%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm.

Để đạt được kết quả đó tỉnh đã triển khai các giải pháp chuyển đổi tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và bền vững, đáp ứng theo nhu cầu của thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu,... nâng cao thu nhập và đời sống cho dân cư nông thôn, xây dựng nông nghiệp, nông thôn phát triển. Với trọng tâm là lấy phát triển kinh tế nông nghiệp là bệ đỡ và là động lực tăng trưởng quan trọng, thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Sản lượng lương thực đạt trên 176.408 tấn, tăng 0,75% (tăng 1.305,23 tấn) so với cùng kỳ, trong đó: Lúa 111.712 tấn, giảm 1,24% (giảm 1.399,89  tấn); ngô 64.696 tấn, tăng 4,36% (tăng 2.705,12 tấn); khoai lang 8.539 tấn, giảm 17,48% (giảm 1.808,33 tấn); lạc 9.454,41 tấn, giảm 2,33% (giảm 97,67 tấn); đậu tương 191,86 tấn, giảm 32,31% (giảm 48,54 tấn),… chuối 8.969 tấn, tăng 1,02% (tăng 90,18 tấn); xoài 1.022 tấn, tăng 12,62% (tăng 114,57 tấn); chè đạt 33.717 tấn, tăng 1,02% (tăng 340,06 tấn),… sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 50.326 tấn, tăng 6,49% (tăng 3.066,17 tấn); thủy sản ước đạt 5.516 tấn, tăng 6,4% (tăng 331,77 tấn); sản lượng gỗ khai thác đạt 600.334 m3, tăng 2,74% (tăng 15.992,1 m3).

1.1.2. Khu vực Công nghiệp, xây dựng tiếp tục có nhiều tín hiệu khởi sắc và có những bước tăng trưởng ấn tượng, với mức tăng 13,54%, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng chung là 3,77% điểm phần trăm. Trong đó:

- Ngành công nghiệp, tăng 13,23%, với mức đóng góp 2,51 điểm phần trăm (trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,99%, đóng góp 2,21 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 8,25%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; cung cấp nước tăng 13,84%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; khai khoáng giảm 5,36%, tăng trưởng âm 0,06 điểm phần trăm). Một số sản phẩm chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ như: Điện sản xuất tăng 38,7%; Thép cây, thép cuộn tăng 10,9%; Xi măng tăng 11,4%; Đường kính tăng 54,4%; Giấy đế xuất khẩu tăng 13,3%; Bột giấy tăng 12,5%; Gỗ tinh chế tăng 11%; Giày da tăng 27,1%,...

- Ngành xây dựng tăng 14,2%, đóng góp 1,26% điểm phần trăm trong khu vực. Với mục tiêu “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, phát huy vai trò “vốn mồi” của đầu tư công để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang (giai đoạn 1); đường từ Thành phố Tuyên Quang đi Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm; xây dựng cầu và đường tránh thị trấn Sơn Dương; đường từ Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến Quốc lộ 2D; Bệnh viện đa khoa tỉnh, Trường Trung học phổ thông Chuyên tại địa điểm mới,… và các dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội,... nhằm kết nối liên vùng, đồng bộ, theo hướng hiện đại, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

1.1.3. Khu vực dịch vụ tăng 8,4%, đóng góp 3,55 điểm phần trăm. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm như sau: Bán buôn, bán lẻ và sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 9,32%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 16,07%, đóng góp 0,54 điểm phần trăm; lưu trú và ăn uống tăng 19,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 10,6% , đóng góp 0,36 điểm phần trăm,…Trong 6 tháng đầu năm tỉnh đã tổ chức các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch có tiềm năng phát triển như du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch cộng đồng; tổ chức thành công các hoạt động khai mạc Năm du lịch và Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế lần thứ II năm 2023 và giải đua thuyền Kayak tỉnh Tuyên Quang mở rộng năm 2023,…

1.1.4. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,28% (đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.

1.2. Quy mô và cơ cấu kinh tế

1.2.1. Quy mô tổng sản phẩm

Quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2024 (giá hiện hành) ước đạt 22.408 tỷ đồng.

1.2.2. Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực với chiều hướng tăng dần tỷ trọng khu vực dịch vụ, cụ thể như sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 5.020,1 tỷ đồng chiếm 24,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 5.841 tỷ đồng, chiếm 28,48%, trong cơ cấu nội hàm ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng, giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo; khu vực dịch vụ ước đạt 8.491,6 tỷ đồng, chiếm 42,65%; thuế sản phầm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 827,2 tỷ đồng chiếm 4,15%.p

Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 202 các ngành: Công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng GRDP của toàn tỉnh, chứng tỏ cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch đúng hướng và tái cơ cấu kinh tế đang mang lại hiệu quả rõ rệt. Đây là sự chuyển dịch cơ cấu tích cực phù hợp với yêu cầu thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và tăng dần tỷ trọng dịch vụ góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và củng cố tiềm lực kinh tế của tỉnh.

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước

2.1.1. Thu ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện là 1.930 tỷ đồng, đạt 49,97% dự toán, tăng 59,61% so với cùng kỳ. Trong đó thu nội địa ước thực hiện là 1.833 tỷ đồng, đạt 48,25%, tăng 59,03%.

Một số khoản thu đạt khá là: Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước do trung ương quản lý là 123 tỷ đồng, đạt 37,3%, tăng 6,57%; khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là 434 tỷ đồng, đạt 47,78%, tăng 30,69%; thuế Thu nhập cá nhân là 105 tỷ đồng, đạt 70,05%, tăng 41,15%; thuế Bảo vệ môi trường là 116 tỷ đồng, đạt 46,25%, tăng 8,02%; các khoản thu về nhà đất là 551 tỷ đồng, đạt 36,16%, tăng 126,75%; hoạt động xổ số kiến thiết là 13 tỷ đồng, đạt 53,73%, tăng 7,52%; thu khác của ngân sách là 244 tỷ đồng, đạt 211,81%, tăng 499,64%,…p

Một số khoản thu thấp: Thu từ khu vực Doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý là 27 tỷ đồng, đạt 38,13%, giảm 9,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28 tỷ đồng, đạt 40,46%, giảm 24,94%; thu cố định tại xã tính cân đối là 1,47 tỷ đồng, đạt 36,89%, giảm 34,15%,...

- Một số nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến tiến độ dự toán:

+ Một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, dẫn đến số nộp ngân sách giảm so với cùng kỳ,... 

+ Tiến độ thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất còn chậm chưa đảm bảo theo dự toán. Trong công tác đấu giá quyền sử dụng đất, quyền dử dụng đất thuê của các huyện, thành phố còn phát sinh một số vướng mắc, khó khăn do chưa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất.  

+ Một số dự án ngoài ngân sách (các dự án khu đô thị và một số dự án sản xuất, kinh doanh,...) còn bị chậm tiến độ, đã ảnh hưởng đến nguồn thu.

2.1.2. Chi ngân sách nhà nước: Tổng chi ngân sách nhà nước là 8.553 tỷ đồng, đạt 63,43% dự toán, tăng 63,62% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển 828 tỷ đồng, đạt 39,84%, giảm 20,74%; chi thường xuyên 3.267 tỷ đồng, đạt 41,77%, tăng 18,66%; chi dự phòng ngân sách 30 tỷ đồng, đạt 15,78%, tăng 71,45%,...

Tỉnh đã tập trung điều hành dự toán ngân sách nhà nước chủ động, chặt chẽ, bảo đảm kỷ luật tài chính, ngân sách, an sinh xã hội, bảo đảm đúng dự toán được duyệt. Ngân sách địa phương tiếp tục thực hiện các chính sách, chế độ về đảm bảo an sinh xã hội. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chi thường xuyên, hạn chế tối đa việc điều chỉnh nhiệm vụ chi. Tăng cường công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước; chủ động rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi, cắt giảm tối đa các nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính và phòng chống tham nhũng góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật tài chính nhằm quản lý kinh phí, tài sản công chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu lực, hiệu quả.

2.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng

Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã thực hiện các giải pháp, tháo gỡ khó khăn về công tác tín dụng nhằm đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ người dân doanh nghiệp trong tiếp cận tín dụng phục vụ sản xuất - kinh doanh, tiếp tục triển khai có hiệu quả các gói vay phục vụ mục tiêu sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng.p

- Về hoạt động huy động vốn: Nguồn vốn huy động tại địa phương ước thực hiện là 35.200, so với cùng kỳ tăng 6.047 tỷ đồng (+20,7%); so với 31/12/2023 tăng 2.058 tỷ đồng (+6,2%).

- Về đầu tư tín dụng: Tổng dư nợ ước đạt 31.320 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 4.133 tỷ đồng (+15,2%); so với 31/12/2023 tăng 1.200 tỷ đồng (+4%). Trong đó: Dư nợ tín dụng thương mại 26.860 tỷ đồng, so với 31/12/2023 tăng 949 tỷ đồng (+3,7%); dư nợ tín dụng chính sách 4.460 tỷ đồng so với 31/12/2023 tăng 251 tỷ đồng (+6%).

- Chất lượng tín dụng: Nợ xấu của các Ngân hàng đến 30/6/2024  khoảng 177 tỷ đồng, chiếm 0,56% trên tổng dư nợ.

Các giải pháp tín dụng về tháo gỡ khó khăn cho khách hàng: Tính đến 30/4/2024, các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh đã  cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 31 lượt khách hàng với tổng giá trị nợ đã được cơ cấu là 43,6 tỷ đồng.

3. Giá cả

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2024 tăng 0,23% so với tháng trước, tăng 3,48% so với cùng kỳ năm trước.

Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính thì có 8 nhóm tăng giá so với tháng trước, 2 nhóm giảm giá và 1 nhóm giữ nguyên so với tháng trước là nhóm Giáo dục, cụ thể của các nhóm như sau:p

+ Có 8/11 nhóm hàng có chỉ số CPI tăng so với tháng trước, trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,07%. Trong đó, lương thực tăng 1,05%; thực phẩm tăng 1,25%; ăn uống ngoài gia đình giữ nguyên, nguyên nhân làm nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng là nhóm gạo tăng 1,59% do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhóm thịt gia súc tăng 2,29% chủ yếu do mặt hàng thịt lợn giá tăng mạnh do nguồn cung thiếu hụt; đồ uống và thuốc lá tăng 0,41%, do thời tiết nắng nóng gay gắt với nhiệt độ cao, nhu cầu sử dụng các loại bia để giải khát của người dân tăng đồng thời giá nguyên liệu đầu vào và giá vận chuyển tăng; may mặc, mũ nón, giày dép tăng nhẹ 0,08% do thời tiết nắng nóng nhu cầu mua sắm các loại vải và quần áo may sẵn của người dân tăng; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,49%, do nhu cầu sử dụng điện, nước sinh hoạt của người dân tăng cùng với đó giá thuê nhà ở tăng cao; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,1%; bưu chính viễn thông tăng 0,04%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,91% do nhu cầu đi du lịch của người dân tăng; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,3%.

+  Có 02/11 nhóm hàng giảm so với tháng trước, trong đó: Nhóm giao thông giảm 2,09% là do giá xăng, dầu điều chỉnh tăng theo quyết định điều chỉnh của Tập đoàn xăng dầu Việt Nam về giá bán lẻ xăng, dầu (xăng giảm 6,09%, dầu diesel giảm 1,11%); thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,04% do nhu cầu mua sắm các loại thiết bị làm mát như điều hòa của người dân giảm.

+ Chỉ số giá vàng giảm 1,64% so với tháng trước, tăng 32,38% so với cùng kỳ năm trước và tăng 20,74% so với tháng 12 năm trước.

+ Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,01% so với tháng trước, tăng 7,57% so với cùng kỳ năm trước và tăng 4,21% so với tháng 12 năm trước.

- CPI bình quân quý II/2024 tăng 0,33% so với quý cùng kỳ, một số nhóm hàng tác động làm CPI trong quý tăng là những nhóm hàng chủ yếu sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,43%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,3%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,44%; giao thông tăng 0,45%,… chỉ số giá vàng tăng 14,73%, giá đô la Mỹ tăng 2,79%.

- CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2023. Một số nguyên nhân cơ bản đã tác động tăng CPI là những nguyên nhân chủ yếu sau: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,02%, chủ yếu do nhóm hàng lương thực tăng 18,31% (do giá gạo tăng), thực phẩm tăng 5,8% (do giá thịt gia súc tăng), ăn uống ngoài gia đình tăng 2,46%; đồ uống và thuốc lá tăng 3,08%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,14%; giao thông tăng 2,36%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 8,47%,…. chỉ số giá vàng tăng 25,8%, giá đô la Mỹ tăng 5,66%.

4. Vốn đầu tư và xây dựng

4.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư

Để phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch Covid-19, Chính phủ xác định thúc đẩy đầu tư công là một trong những trụ cột chính, là động lực phát triển, có tác động lan tỏa tới các ngành, nghề lĩnh vực trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh đầu tư công vừa kích thích chi tiêu đầu tư công trong ngắn hạn để tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và là công cụ chủ yếu điều hành kinh tế vĩ mô và tạo ra các kết cấu hạ tầng phục vụ hiệu quả, lâu dài cho nền kinh tế.

4.1.1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội

Ước thực hiện quý II/2024 đạt 4.056 tỷ đồng, tăng 17,7% so với quý I/2024, tăng 15,86% so với quý cùng kỳ năm trước; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 7.502 tỷ đồng, tăng 22,74% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nguồn vốn từ khu vực nhà nước ước đạt 2.123 tỷ đồng, giảm 3,26% so với cùng kỳ (chiếm 28,3% tổng nguồn vốn đầu tư); nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân ước đạt 4.470 tỷ đồng, tăng 15% (chiếm 59,58% tổng nguồn vốn) khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong đầu tư phát triển toàn xã hội và giữ vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn, trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn hẹp rất cần các nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân; Vốn vay từ các nguồn khác (của khu vực Nhà nước) ước đạt 270 tỷ đồng, tăng 2.319,63% (chiếm 3,6%); vốn huy động khác ước đạt 142 tỷ đồng, tăng 2,34% (chiếm 1,89%); vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước ước đạt 445 tỷ đồng, tăng 6.105,2%, (chiếm 5,93%); nguồn vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước ước đạt 3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ (chiếm 0,05%); nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 49 tỷ đồng, tăng 9,62% (chiếm 0,65%) trên tổng nguồn vốn,...p

4.1.2. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước

- Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện tháng 6 đạt 449 tỷ đồng, tăng 12,86% so với tháng trước; tăng 26,26% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 407 tỷ đồng, tăng 15,87%, tăng 28,88%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 41 tỷ đồng, giảm 8,65%, tăng 5,72%; vốn ngân sách cấp xã đạt 2 tỷ đồng, giảm 25,21%, tăng 6,62%.

- Ước thực hiện quý II/2024 đạt 1.308 tỷ đồng, tăng 31,37% so với quý I/2024, tăng 52,1% so với cùng quý năm trước, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 1.179 tỷ đồng, tăng 28,23%, tăng 56,15%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 123 tỷ đồng, tăng 66,44%, tăng 23,7%; vốn ngân sách cấp xã đạt 7 tỷ đồng, tăng 6,53%, tăng 12,71%.p

- Ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1.631 tỷ đồng, tăng 49,27% so với cùng kỳ, trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh đạt 1.442 tỷ đồng, tăng 49,13%; vốn ngân sách cấp huyện đạt 176 tỷ đồng, tăng 54,83%; vốn ngân sách cấp xã đạt 13 tỷ đồng, tăng 8,48%.

4.2. Xây dựng

Với mục tiêu giải ngân ngồn vốn đầu tư công là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu trong năm 2024, là động lực quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Tỉnh đã tập trung thực hiện các biện pháp, giải pháp linh hoạt, sáng tạo, kịp thời, hiệu quả để quyết liệt đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, vốn 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình, dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia, đường cao tốc, các dự án liên vùng, có tác động lan tỏa,.... tập trung tháo gỡ dứt điểm các khó khăn, vướng mắc, nhất là trong công tác giải phóng mặt bằng, khó khăn về đất đai, tài nguyên, hoàn thiện thủ tục đầu tư để khởi công các dự án mới, và để các dự án đang triển khai sớm hoàn thành... Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hiện trường, đôn đốc các nhà thầu, tư vấn đẩy nhanh tiến độ. Chủ động rà soát, điều chuyển vốn theo thẩm quyền giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có khả năng giải ngân tốt hơn và còn thiếu vốn theo quy định.  Các đơn vị thi công đã nỗ lực khắc phục khó khăn, thi công với tinh thần "vượt nắng, thắng mưa", tranh thủ từng ngày, từng giờ, huy động đầy đủ thiết bị, nhân lực, tài chính, vật liệu để thi công "3 ca, 4 kíp" nâng cao chất lượng các công trình, dự án sớm hoàn thành trước tiến độ đề ra.

Năm 2024, Tuyên Quang được giao tổng kế hoạch vốn đầu tư công là  6.113,18 tỷ đồng, trong đó vốn năm 2023 kéo dài sang năm 2024 là 355,16 tỷ đồng; vốn được phân bổ, giao theo kế hoạch năm 2024 là 5.758,02 tỷ đồng. Tính đến ngày 15/6/2024, tổng số vốn vốn đầu tư công đã giải ngân được là trên 1.562,2 tỷ đồng, đạt 25,55% kế hoạch, trong đó: Nguồn vốn kế hoạch năm 2024 giải ngân được 1.512,3 tỷ đồng, đạt 26,26%; nguồn vốn năm 2023 kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân sang năm 2024 giải ngân được 49,9 tỷ đồng, đạt 14,05%. Ước tính đến ngày 30/6/2024 giải ngân 2.445 tỷ đồng đạt 40% kế hoạch, nằm trong nhóm các địa phương có tỷ lệ giải ngân khá của cả nước.

5. Hoạt động của doanh nghiệp

5.1. Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp

- Tính đến thời điểm ngày 20/6 toàn tỉnh có 02 doanh nghiệp thành lập mới trong tháng với số vốn đăng ký đạt trên 7 tỷ đồng. Tính chung trong quý II toàn tỉnh có 48 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 118,31 tỷ đồng, giảm 21,31% về số doanh nghiệp, giảm 80,79% về số vốn đăng ký so với quý cùng kỳ năm trước.

- Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh có 134 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 792,07 tỷ đồng, tăng 18,58% về số doanh nghiệp, số vốn đăng ký giảm 9,93% so với cùng kỳ, số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 5,91 tỷ đồng, giảm 24,05% so với cùng kỳ.

- Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 6 tháng là 60 doanh nghiệp, giảm 10,45% (giảm 8 doanh nghiệp so với cùng kỳ). Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 2.752 doanh nghiệp (bao gồm 11 doanh nghiệp nhà nước và 17 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với tổng số vốn đăng ký trên 35.078,06 tỷ đồng; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt trên 12,75 tỷ đồng. p

- Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 169 doanh nghiệp, tăng 33,07% (tăng 42 doanh nghiệp so với cùng kỳ). Số doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể là 17 doanh nghiệp, tăng 41,67% (tăng 05 doanh nghiệp so với cùng kỳ).

Nhìn chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm, trong khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lại tăng so với cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ và vừa có sức chống chọi với khó khăn kém hơn so với những doanh nghiệp có quy mô lớn; sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm; giá xăng dầu liên tục biến động, chi phí logistics quá cao và một yếu tố nữa là do làm ăn thua lỗ kéo dài, thiếu vốn đầu tư sản xuất vì không huy động được vốn, tài chính để tiếp tục hoạt động, trong khi đó năng lực quản lý, điều hành thiếu kinh nghiệm làm cho tình hình kinh doanh của DN ngày càng đi xuống và không thể phát triển, thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường, nên nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp lại, không thể tiếp tục hoạt động dẫn đến phải giải thể doanh nghiệp.

5.2. Tình hình xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo quý II năm 2024

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II năm 2024 cho thấy: 36,67% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm nay khả quan hơn quý trước; 53,33% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 10,0% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Chỉ số cân bằng của quý II năm 2024 so với quý I là 26,67%. Dự kiến xu hướng kinh doanh quý III năm 2024 so với quý II cho thấy: Có 53,33% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên (trong đó có ngành: Sản xuất trang phục; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; in, sao chép bản ghi các loại; sản xuất sản phẩm từ caosu và plastic; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn); 33,33% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định (trong đó có ngành: sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học); có 13,33% số doanh nghiệp dự báo tiếp tục khó khăn hơn. Dự tính chỉ số cân bằng của quý tiếp theo so với quý hiện tại là 40,0%.

6. Kết quả tình hình sản xuất Nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2024

6.1. Trồng trọt

6.1.1. Sản xuất vụ đông xuân năm 2024

Sản xuất Đông Xuân 2023-2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp và khó lường, những đợt mưa lớn kèm theo rét đậm, rét hại xảy ra trên diện rộng ở thời điểm trước và trong tết Nguyên Đán, tiến độ gieo trồng vụ Đông Xuân bị chậm lại, cùng với đó là hiện tượng sâu bệnh phát sinh trên diện rộng đã ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng muộn hơn so với vụ Đông xuân 2022-2023 từ 5-7 ngày. Ngành chức năng và chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất, diện tích gieo cấy lúa được đảm bảo theo kế hoạch đề ra và theo đúng khung lịch thời vụ. Hơn 18 nghìn ha lúa trên địa bàn tỉnh vẫn sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất trung bình đạt khá so với vụ Đông xuân năm ngoái.

Sơ bộ vụ đông xuân 2024 toàn tỉnh gieo trồng được 49.607 ha, giảm nhẹ 0,44% (giảm 219,19 ha) so với năm 2023, trong đó: Vụ xuân đạt 34.984 ha, giảm 0,75% (giảm 263,24 ha); vụ đông đạt 14.624 ha, tăng 0,3% (tăng 44,05 ha), diện tích một số cây trồng chủ yếu như sau:p

- Cây lúa: Diện tích gieo trồng được 18.482 ha, giảm 1,16% (giảm 217,68 ha) so với vụ đông xuân năm 2023; năng suất ước đạt 60,44 tạ/ha, giảm 0,07% (giảm 0,04 tạ/ha); sản lượng đạt 111.712 tấn, giảm 1,24% (giảm 1.399,89 tấn).

- Cây ngô: Trồng được 13.895 ha, tăng 3,42% (tăng 459,66 ha) so với vụ đông xuân năm 2023; năng suất đạt 46,56 tạ/ha, tăng 0,91% (tăng 0,42 tạ/ha); sản lượng 64.697 tấn, tăng 4,36% (tăng 2.705,12 tấn).

- Cây khoai lang: Trồng được 1.367 ha, giảm 17,33% (giảm 286,64 ha) so với vụ đông xuân năm 2023; năng suất 62,46 tạ/ha, giảm 0,18% (giảm 0,11 tạ/ha); sản lượng 8.539 tấn, giảm 17,48% (giảm 1.808,33 tấn).

- Cây đậu tương: Trồng được 102 ha, giảm 32,31% (giảm 48,54 ha) so với vụ đông xuân năm 2023; năng suất 18,87 tạ/ha, tăng 0,64% (tăng 0,12 tạ/ha); sản lượng 192 tấn, giảm 32,31% (giảm 48,54 tấn).

- Cây lạc: Trồng được 3.169 ha, giảm 3,24% (giảm 105,96 ha) so với vụ đông xuân năm 2023; năng suất 29,84 tạ/ha, tăng 0,93% (tăng 0,28 tạ/ha); sản lượng đạt 9.454 tấn, giảm 2,33% (giảm 97,67 tấn). p

6.1.2 Cây lâu năm

Diện tích cây chuối hiện có trên địa bàn tỉnh 2.123 ha, tăng 4,88% (tăng 109 ha) so với cùng kỳ năm trước, sản lượng ước đạt trên 8.969 tấn, tăng 1,02% (tăng 90,18 tấn); sản lượng chủ yếu được thu mua của các doanh nghiệp chế biến trên địa bàn tỉnh và tiêu thụ tại các thị trường lân cận và các địa phương khác trong cả nước,… cây vải hiện có 311 ha, giảm 1,8% (giảm 5,71 tấn), sản lượng 1.764 tấn, giảm 1,57%, giảm 28,1%.

Diện tích cây chè trên địa bàn tỉnh hiện có 8.203 ha, giảm 1,04% (giảm 86,3 ha), sản lượng 33.717 tấn, giảm 1,02% (giảm 340,06 tấn) so với cùng kỳ.

6.1.3. Sản xuất vụ mùa năm 2023

Vụ mùa năm 2024 dự báo sẽ gặp rất nhiều khó khăn do thời gian chuyển vụ ngắn, thiếu nguồn lực lao động trong sản xuất, thời tiết sẽ có nhiều diễn biến bất thường, các hình thái thời tiết mưa dông lớn, nắng nóng gay gắt sẽ xuất hiện, tình hình sâu bệnh khó lường,... Vì vậy, để sản xuất vụ mùa thắng lợi, các ngành chức năng và các địa phương trong toàn tỉnh đã chủ động xây dựng các phương án sản xuất phù hợp, sẵn sàng đối phó với các tình huống khó khăn, huy động nguồn lực tập trung gieo trồng trong khung thời vụ tốt nhất… đảm bảo một vụ mùa bội thu.

Vụ mùa năm 2024, toàn tỉnh gieo cấy 24.311 ha lúa trong đó: Lúa lai 8.906 ha, lúa thuần 15.404 ha. Hiện nay, các địa phương trong tỉnh đang tập trung nhân lực, huy động máy móc, đẩy nhanh thu hoạch vụ xuân, với phương châm thu hoạch đến đâu làm đất gieo cấy vụ mùa đến đó, đẩy nhanh tiến độ sản xuất vụ mùa, bảo đảm khung thời vụ cho vụ đông sắp tới; tính đến ngày 15/6/2024 toàn tỉnh đã gieo được 501.760 kg mạ, tương đương 12.570 ha, diện tích gieo cấy được 504 ha, đạt 2,07% so kế hoạch.

6.2. Tình hình sinh vật gây hại

- Cây hàng năm vụ xuân (chín cho thu hoạch): Bị rầy nâu, rầy lưng trắng, bọ xít gây hại rải rác, đạo ôn cổ bong gây hại cục bộ; cây ngô, cây lạc, đậu tương bị sâu keo, sâu đục thân, bệnh đóm lá, khô vằn gây hại; cây mía, bị bọ trĩ, sâu đục thân, than đen, bọ hung gây hại rải rác, tỷ lệ hại nơi cao 1-3% số cây.

- Cây lâu năm: Cây chè bị rầy xanh, bọ trĩ, bọ xít, nhện đỏ gây hại, tỷ lệ hại trung bình 2-4 %, nơi cao 6-10% số búp; cây có múi xuất hiện nhện trắng, nhện đỏ, rám vàng gây hại rải rác, tỷ lệ hại nơi cao 3-5% số lá; cây nhãn, vải bị bọ xít, bệnh gây hại, mật độ trung bình 1-2 con/cành, nơi cao 4-5 con/cành, non-trưởng thành; bệnh chổi rồng, bệnh sương mai gây hại rải rác, tỷ lệ hại nơi cao 2-4% số cành.

- Cây lâm nghiệp (vườn ươm 1-5 tuổi): Sâu ăn lá gây hại rải rác, tỷ lệ hại nơi cao 1-2% số lá (sâu non); bệnh chết héo gây hại trên cây keo 1-3 tuổi, nơi cao 1-3% số cây, bệnh thán thư, bệnh phấn trắng, bệnh cháy lá, khô cành, lở cổ rễ vườn ươm gây hại, tỷ lệ hại nơi cao 1-3% số cây.

6.3. Về chăn nuôi

6.3.1. Về số lượng đàn gia súc, gia cầm

Đàn trâu tổng đàn ước đạt 86.701 con, giảm 2,65% (giảm 2.364 con) so với cùng kỳ năm 2023; đàn bò 39.839 con, tăng 2,84% (tăng 1.102 con); đàn lợn 576.819 con, tăng 3,43% (tăng 19.129 con); đàn gia cầm 7.348,19 nghìn con, tăng 3,6% (tăng 255,32 nghìn con).p

6.3.2. Về sản phẩm đàn gia súc, gia cầm

Đàn trâu sản lượng thịt hơi đạt 4.030 tấn, tăng 6,55% (tăng 224 tấn) so với cùng kỳ năm 2023; đàn bò 1.317 tấn, tăng 6,28% (tăng 78 tấn); đàn lợn 34.829 tấn, tăng 6,33% (tăng 2.074,25 tấn); đàn gia cầm 10.150 tấn, tăng 7,3% (tăng 601,32 tấn).p

Đánh giá chung, tình hình chăn nuôi trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh tiếp tục xu hướng tích cực, đàn trâu, bò khá ổn định về tổng đàn, không có biến động lớn, chăn nuôi lợn có kết quả tích cực mặc dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do giá lợn hơi thấp, chi phí đảm bảo chăn nuôi an toàn sinh học và phòng dịch cao, giá thức ăn chăn nuôi theo xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao; chăn nuôi gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Tuy nhiên, do sức mua thực phẩm của người dân nhìn chung giảm nhẹ so với trước đây do mức thu nhập của người dân không ổn định, sức tiêu thụ thực phẩm của các khu công nghiệp giảm do nhiều công ty giảm quy mô sản xuất, tâm lý của người chăn nuôi cũng phần nào bị ảnh hưởng tiêu cực do bệnh dịch tả lợn Châu phi tái phát, đã tác dộng xấu lên tâm lý người chăn nuôi và người tiêu dùng, phần nào ảnh hưởng đến công tác tái đàn gia súc, gia cầm để cung ứng thực phẩm cho dịp cuối năm và Tết Nguyên Đán sắp tới.

6.4. Công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm

6.4.1. Công tác phòng chống và điều trị

  - Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã ghi nhận 3 địa phương tái phát dịch tả lợn châu Phi là huyện Lâm Bình, Na Hang, Chiêm Hóa, Hàm Yên, số lợn mắc bệnh là 178 con của 23 hộ/09 thôn/07 xã, tổng trọng lượng 5.479 kg. Các ổ dịch đều xuất hiện ở những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, không đủ các điều kiện về vệ sinh thú y, thiếu các biện pháp phòng, chống dịch. Hiện, toàn bộ lợn mắc bệnh đã được đưa đi tiêu hủy theo đúng quy định về phòng chống dịch bệnh. Trước tình hình trên, ngành chức năng đã khẩn trương thực hiện các biện pháp khoanh vùng dập dịch, hỗ trợ thuốc, vôi bột cho các địa phương để tiêu độc khử trùng tại khu vực chuồng trại của các hộ gia đình chăn nuôi có dịch. Đồng thời tạm dừng hoạt động mua bán gia súc khu vực có dịch; thành lập các chốt kiểm dịch động vật tạm thời tại địa bàn có dịch và các xã có nguy cơ lây nhiễm cao nhằm ngăn chặn dịch phát sinh lan rộng.

- Các bệnh truyền nhiễm khác: Hiện nay, trên địa bàn chưa xuất hiện các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như công tác theo dõi giám sát được tăng cường thường xuyên, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các huyện thành phố để kịp thời xử lý ngay khi dịch bệnh xảy ra.

- Trên địa bàn các huyện, thành phố rải rác xuất hiện các bệnh khác như: viêm phổi, bệnh ký sinh trùng đường máu, bệnh tiêu chảy, bệnh phù đầu... rải rác xuất hiện trên đàn gia súc (tập trung lớn ở 02 huyện Yên Sơn, Sơn Dương) đã được nhân viên thú y phát hiện, điều trị khỏi: 1.825/1.862 con, chết 37 con (trong đó: Trâu, bò: 135/135 con; đàn lợn: 1690/1727 con chết 37 con).

6.4.2. Công tác tiêm phòng: Các huyên, thành phố đã thực hiện công tác tiêm phòng bổ sung cho đàn gia súc, gia cầm, cụ thể như sau: Đàn trâu LMLM: 44.493 con; THT: 48.168 con; đàn bò LMLM: 26.135 con; THT: 26.996 con; đàn lợn LMLM: 30.343 con; THT: 357.550 con; Dịch tả: 354.133 con; đàn gia cầm THT: 3.528.020 con; Niucatson: 3.626.676 con.

6.5. Công tác kiểm dịch vận chuyển động vật và công tác kiểm soát giết mổ

- Trong 6 tháng đầu năm 2024 các Trạm Kiểm dịch vận chuyển ngoại tỉnh: Đã kiểm tra cấp 1.259 giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển trong đó (304 chuyến vận chuyển 75.689 con gia súc, gia cầm và 70.000 con cá giống và 953 chuyến vận chuyển 18.388 tấn sữa tươi nguyên liệu và02 chuyến vận chuyển 2.560 kg SPĐV chế biến làm Thức ăn chăn nuôi). đi các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Hà Giang, Nam Định...

+ Tại các Trạm Kiểm dịch động vật: Các huyện duy trì thực hiện tại các trạm Kiểm dịch, đã kiểm tra 695 lượt phương tiện vận chuyển đủ thủ tục trong đó: (694 chuyến vận chuyển 670.372con gia súc, gia cầm; 01 chuyến vận chuyển 8.550 kg sản phẩm động vật).

+ Công tác kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y: Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp các huyện, thành phố đã kiểm tra, đóng dấu: 699 con trâu, bò; 26.412 con lợn.

6.6. Về sản xuất lâm nghiệp

6.6.1. Công tác trồng rừng

Năm 2024, toàn tỉnh phấn đấu trồng mới trên 10.500 ha, trong đó: Rừng sản xuất là 10.100 ha, rừng phân tán 400 ha; tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng chủ động hướng dẫn và kiểm tra các huyện, thành phố, các cơ quan, đơn vị tăng cường thực hiện công tác quản lý đất lâm nghiệp. Bố trí đất trồng, cây giống, dọn thực bì và cuốc hố để bước vào vụ trồng rừng mới, đảm bảo thắng lợi, quyết tâm phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh đã trồng được 9.288 ha, giảm 2,15% (giảm 204,18 ha) so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 725,5 nghìn cây, giảm 3,99%, giảm 30,15 nghìn cây.p

6.6.2. Khai thác gỗ rừng trồng 

Toàn tỉnh khai thác được 600.334 m3 gỗ¬, tăng 2,74% (tăng 15.992 m3) so với cùng kỳ năm 2023. Gỗ khai thác chủ yếu là gỗ rừng trồng nguyên liệu như keo, bạch đàn phục vụ cho các công ty chế biến gỗ và sản xuất giấy trên địa bàn tỉnh.

6.6.3. Công tác quản lý bảo vệ rừng

Hiện nay, thời tiết đã bước vào thời kỳ cao điểm hanh khô, nhiều diện tích rừng trên địa bàn tỉnh có nguy cơ cháy rất cao, đặc biệt là ở một số huyện trọng điểm về cháy rừng. Để chủ động phòng cháy, chữa cháy rừng (PCCCR) mùa hanh khô, ngành chức năng của tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục cho người dân nâng cao kiến thức về phòng cháy, chữa cháy rừng; tăng cường kiểm tra, ngăn chặn việc phá rừng, đốt rừng, triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển lâm sản trái phép. Thường xuyên cảnh báo nguy cơ cháy rừng, đẩy mạnh tuyên truyền về công tác phòng cháy chữa cháy rừng đối với các chủ rừng; tăng cường hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng và chính quyền cơ sở, các chủ rừng tăng kiểm tra, kiểm soát, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật các hành vi xâm hại rừng, hạn chế thấp nhất các vụ cháy rừng xảy ra trên địa bàn.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, trên địa bàn toàn tỉnh không xảy ra các vụ cháy rừng, diện tích chặt, phá rừng trên 7,77 ha; tổ chức kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm 60 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp; tịch thu 7 phương tiện và 51,57 m3 gỗ các loại; phạt hành chính và bán thanh lý tài sản 490 triệu đồng (đã thu nộp ngân sách 261,7 triệu đồng).

6.7. Về thuỷ sản

Nhằm giảm thiệt hại cho các hộ nuôi trồng thủy sản trong mùa mưa bão, bão kéo dài và không theo quy luật; ngành chức năng và các hộ nuôi trồng đã chủ động triển khai nhiều biện pháp để bảo vệ an toàn nuôi trồng thủy sản trước diễn biến phức tạp của thời tiết.

Ước tính, diện tích nuôi trồng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2024 đạt 3.361 ha, giảm 0,25% (giảm 8,52 ha) so với cùng kỳ năm 2023. Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 5.516 tấn, tăng 6,4% (tăng 331,77 tấn), trong đó: Sản lượng nuôi trồng 4.798 tấn, tăng 5,28% (tăng 240,8 tấn); sản lượng khai thác 718 tấn, tăng 14,5% (tăng 90,87 tấn); sản xuất giống được 75,57 triệu con tăng 1,59% (tăng 1,18 triệu con).p

6.8. Phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Giáp Thìn và thực hiện kế hoạch trồng rừng năm 2024

Hưởng ứng phong trào Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Giáp Thìn năm 2024 và Chương trình “Trồng 1 tỷ cây xanh” của Thủ tướng Chính phủ; trên địa bàn toàn tỉnh đã tổ chức 150 điểm phát động “Tết trồng cây” với tổng số 19.054 người tham gia, trồng được 235.772 cây Keo, Mỡ, Bạch đàn và một số loài cây bản địa, tương đương diện tích 198,84 ha.

Tỉnh đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Lễ phát động Tết trồng cây Đời đời nhớ ơn Bác Hồ Xuân Giáp Thìn năm 2024, địa điểm tại thôn 21, xã Kim Phú (Thành phố Tuyên Quang). Tại buổi Lễ đã trồng được 3.060 cây (3.000 cây Keo lai mô và 60 cây Chò chỉ) trên diện tích 2 ha.

Các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh đã tích cực hưởng ứng tham gia trồng cây, trồng rừng. Kết quả đã huy động được 18.304 người tham gia, trồng được 232.712 cây Keo, Mỡ, Bạch đàn và một số loài cây bản địa, tương đương diện tích 196,84 ha, hoạt động trên đã mở đầu cho một mùa trồng cây, gây rừng của tỉnh trong năm 2024.

6.9. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

6.9.1. Đối với xã nông thôn mới

Tỉnh đã tổ chức Lễ công bố Quyết định công nhận 08/08 xã đạt chuẩn nông thôn mới theo kế hoạch năm 2023. Tính đến tháng 6/2024, toàn tỉnh có 74/122 xã hoàn thành 19/19 tiêu chí xã nông thôn mới (chiếm 60,65%). Tiêu chí xây dựng nông thôn mới đạt bình quân 15,8 tiêu chí/xã; duy trì và giữ vững 19/19 tiêu chí tại các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới theo các bộ tiêu chí  xã nông thôn mới nâng cao và xã nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2021-2025.

Năm 2024, Tuyên Quang phấn đấu có thêm 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Ngay trong những ngày đầu năm, các địa phương trong tỉnh đã quyết tâm thực hiện các tiêu chí, đặc biệt là những tiêu chí khó thực hiện do phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư, và cần huy động nhiều nguồn lực từ xã hội.

6.9.2. Đối với huyện nông thôn mới

- Huyện Hàm Yên: Đến nay cơ bản đạt 5/9 tiêu chí, gồm: Quy hoạch, thủy lợi và phòng, chống thiên tai; điện; kinh tế; hệ thống chính trị - an ninh trật tự - hành chính công. Còn 04 tiêu chí chưa đạt, gồm: Giao thông; y tế - văn hóa - giáo dục; môi trường; chất lượng môi trường sống.

- Huyện Sơn Dương: Đến nay huyện Sơn Dương đánh giá đã đạt 04 tiêu chí, gồm: Thủy lợi và phòng chống thiên tai, điện; kinh tế; hệ thống chính trị - an ninh trật tự - hành chính công; còn 05 tiêu chí chưa đạt, gồm: Quy hoạch; giao thông; y tế - văn hóa - giáo dục; môi trường; chất lượng môi trường sống.

7. Sản xuất công nghiệp

7.1. Về phát triển công nghiệp trong tháng

- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng giảm 6,66% so với tháng trước, tăng 13,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành sản xuất và và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 45,72%, tăng 419,42%; khai khoáng giảm 5,41%, tăng 9,23%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,01%, giảm 8,16%; cung cấp nước và hoạt động thu gom xử lý rác, nước thải giảm 2,48%, giảm 0,83%.

- Trong tháng, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước như: Điện thương phẩm đạt 123 triệu Kwh, tăng 13,08%, tăng 8,49%; điện sản xuất đạt 252 triệu Kwh, tăng 37,09%, tăng 376,08%; xi măng đạt 120.000 tấn, tăng 16,16%, tăng 65,3%; nước máy thương phẩm đạt 872 nghìn m3, tăng 27,06%, tăng 29,78%; gỗ tinh chế đạt 1.1188 m3, tăng 37,24%, tăng 37,02%%,…Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ như: Bột ba rít đạt 1.500 tấn, giảm 40%; bột Felspat đạt 22.500 tấn, giảm 4,31%; may mặc xuất khẩu đạt 1.308 nghìn sản phẩm, giảm 2,71%; giấy đế xuất khẩu đạt 1.000 tấn, giảm 13,33%,…

7.2. Về phát triển công nghiệp trong quý II/2024

- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý II/2024 ước tính tăng 6,1% so với quý cùng kỳ, trong đó: Sản xuất và phân phối điện tăng 114,19%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 5,85%; khai khoáng tăng 4,53%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,75%.

- Trong quý II/2024 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá so với quý cùng kỳ như: Điện thương phẩm tăng 5,6%; điện sản xuất tăng 102,76%; xi măng tăng 26,86%; nước máy thương phẩm tăng 9,86%; giấy in viết, photo thành phẩm tăng 9,85%; giày da tăng 26,68%; gỗ tinh chế tăng 61,12%; thép cây, thép cuộn tăng 39,85%,…Tuy nhiên, cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với quý cùng kỳ như: Bột ba rít giảm 53,86%; bột felspat giảm 15,65%; may mặc xuất khẩu giảm 20,68%,…

7.3. Về phát triển công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024

- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,22% so với cùng kỳ năm trước, Chia theo từng ngành kinh tế cấp I như sau:p

+ Ngành khai khoáng tăng 0,58%. Nguyên nhân chủ yếu là nhu cầu tiêu thụ những tháng gần đây tăng, làm tăng sản lượng khai thác của các doanh nghiệp sản xuất bột ba rít và bột felspat nghiền so cùng kỳ.

+ Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 49,53%, nguyên nhân: từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xuất hiện các đợt mưa dông trên diện rộng và kéo dài, lượng nước đổ về các hồ chứa thủy điện cao hơn so với trung bình nhiều năm, các nhà máy thủy điện đã đảm bảo lượng nước đủ để cung cấp điện lâu dài đến hết mùa khô; đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và cung ứng điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và nước sinh hoạt của các hộ dân trên phạm vi toàn tỉnh

+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,32%, trong đó: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 17,11%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 53,57%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 68,31%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 9,62%; giường, tủ, bàn, ghế tăng 7,2%,...

+ Ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,3%: nguyên nhân: Do thời tiết năng nóng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của hộ gia đình và doanh nghiệp tăng cao so với cùng kỳ.

- Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Điện thương phẩm tăng 3,1%; điện sản xuất tăng 38,66%; xi măng tăng 11,4%; giấy đế xuất khẩu tăng 13,3%; bột giấy tăng 12,46%; giày da tăng 27,12%; gỗ tinh chế tăng 11,05%; thép cây, thép cuộn tăng 10,92%,… Tuy nhiên, một số sản phẩm công nghiệp có chiều hướng giảm so với cùng kỳ như: Bột ba rít giảm 50,7%; bột Felspat nghiền giảm 27,97%; giấy in viết, photo thành phẩm giảm 5,54%; may mặc xuất khẩu giảm 5,85%,...

Nhìn chung, tình hình sản xuất công nghiệp tỉnh đang dần phục hồi và duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau tăng hơn quý trước; tỉnh cũng tập trung thực hiện các giải pháp phát triển công nghiệp, xây dựng với trọng tâm vào các ngành mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế như: Công nghiệp chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da giày, điện tử,…  đôn đốc tiến độ và kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án công nghiệp trọng điểm, để các dự án sớm hoàn thành đầu tư đưa vào sản xuất, nhằm gia tăng sản lượng và đóng góp thêm các sản phẩm công nghiệp mới và có phương án bù đắp các sản phẩm thiếu hụt, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu sản xuất công nghiệp theo kế hoạch; đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa chủ lực của địa phương. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh có thêm 14 dự án hoàn thành đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, với tổng mức đầu tư trên 1.458,6 tỷ đồng,… các dự án hoàn thành đưa vào hoạt động dự kiến tăng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trên 650 tỷ đồng góp phần thực hiện kế hoạch đã đề ra, tạo việc làm ổn định cho lao động, đóng góp ngân sách vào kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, đối với các nhóm hàng chủ lực chính của tỉnh như: May mặc xuất khẩu, gỗ, bột ba rít,… do nhu cầu tiêu dùng giảm của các đối tác thương mại truyền thống lớn như: Trung Quốc, Mỹ và EU giảm dẫn đến đơn hàng sản xuất giảm, lượng hang tồn kho lớn. Để phục hồi sản xuất, bắt buộc các doanh nghiệp, cùng với đó là chuyển hướng đa dạng sản phẩm và tìm kiếm thị trường mới. Đây là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn đang bất ổn.

8. Thương mại và Dịch vụ

Hoạt động thương mại, dịch vụ và vận tải trên địa bàn tỉnh trong những tháng đầu năm diễn ra sôi động, tăng trưởng khá so với cùng kỳ; nguồn cung các mặt hàng dồi dào, không có biến động lớn về giá cả, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất của doanh nghiệp và đời sống của người dân, nguồn cung các mặt hàng xăng, dầu đầy đủ, giá trong nước diễn biến và chịu tác động theo giá nhiên liệu thế giới; các doanh nghiệp đã triển khai nhiều chương trình khuyến mại, giảm giá hấp dẫn để kích cầu tiêu dùng của người dân. Bên cạnh đó, ngành chức năng đã tăng cường xúc tiến các hoạt động thương mại, kích cầu trên địa bàn tỉnh, tìm kiếm và mở rộng các thị trường tiềm năng trong và ngoài nước; tích cực kêu gọi người dân hưởng ứng Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; “Người Tuyên Quang ưu tiên dùng hàng nông sản Tuyên Quang”, cùng với đó là thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử.

 Hoạt động du lịch, lữ hành được phục hồi và khởi sắc; dịch vụ tăng trưởng khá; xuất, nhập khẩu tương đối ổn định, các doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, duy trì các đối tác, bạn hàng truyền thống và cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm, tiết giảm các chi phí để giảm gía thành sản phẩm,....

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 ước đạt 2.843 tỷ đồng, tăng 2,28% so với tháng trước, tăng 16,34% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước ước đạt 15.994 tỷ đồng, tăng 19,56% so với cùng kỳ.p

8.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa

Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng ước đạt 2.490 tỷ đồng, tăng 1,73% so với tháng trước, tăng 15,63% so với tháng cùng kỳ. Trong đó, một số nhóm hàng tăng so với tháng trước, tăng so với cùng kỳ, cụ thể như sau: Hàng lương thực, thực phẩm đạt 885 tỷ đồng, tăng 4,14%, tăng 1,17%; may mặc đạt 141 tỷ đồng, tăng 2,2%, tăng 9,45%; xăng, dầu các loại đạt 279 tỷ đồng, tăng 2,99%, tăng 13,06%; hang hóa khác đạt 351 tỷ đồng, tăng 0,85%, tăng 96,06%; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 92 tỷ đồng, tăng 1,65%, tăng 33,12%,…Ở chiều ngược lại, một số nhóm hàng giảm so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ như: Vật phẩm, văn hóa, giáo dục đạt 35 tỷ đồng, giảm 5,54%, tăng 74,2%; gỗ và vật liệu xây dựng đạt 238 tỷ đồng, giảm 0,25%, tăng 7,51%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) đạt 43 tỷ đồng, giảm 9,61%, tăng 8,37%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con đạt 79 tỷ đồng, giảm 6,59%, tăng 49,29%,…Tính chung trong quý I/2024, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.237 tỷ đồng, tăng 19,23% so với quý cùng kỳ. Tính trong 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 14.064 tỷ đồng, tăng 19,29% so với cùng kỳ.

8.2. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ khác

- Trong tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 243 tỷ đồng, tăng 7,06% so với tháng trước, tăng 18,29% so với cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ lưu trú đạt 24 tỷ đồng, tăng 10,24%, tăng 33,73%; ăn uống đạt 219 tỷ đồng, tăng 6,73%, tăng 16,67%. Tính chung trong quý II/2024 dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 682 tỷ đồng, tăng 10,23% so với quý cùng kỳ. Tính trong 6 tháng đầu năm 2024, dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.275 tỷ đồng, tăng 15,2% so với cùng kỳ.

- Trong tháng, doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 0,55 tỷ đồng, tăng 5,55% so với tháng trước, tăng 176,49% so với cùng kỳ. Tính chung trong quý II/2024 du lịch lữ hành ước đạt 1,52 tỷ đồng, tăng 186,79% so quý cùng kỳ. Tính trong 6 tháng đầu năm 2024 du lịch lữ hành ước đạt 2,71 tỷ đồng, tăng 174,96%.

- Doanh thu dịch vụ khác trong tháng ước đạt 109 tỷ đồng, tăng 4,9% so với tháng trước, tăng 29,09% so với cùng kỳ. Trong đó: Dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 5 tỷ đồng, tăng 0,26%, tăng 63,85%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ đạt 22 tỷ đồng, tăng 5,61%, tăng 24,48%; giáo dục và đào tạo đạt 4 tỷ đồng, tăng 6,33%, tăng 15,14%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 31 tỷ đồng, tăng 14,53%, tăng 73,41%; nhóm sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình đạt 12 tỷ đồng, giảm 0,24%, giảm 1,8%. Tính chung trong quý II/2024 dịch vụ khác ước đạt 331 tỷ đồng, tăng 32,93% so quý cùng kỳ. Tính trong 6 tháng đầu năm 2024, dịch vụ khác ước đạt 652 tỷ đồng, tăng 35,99% so với cùng kỳ.

 8.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Hoạt động xuất, nhập khẩu trong tháng 6 đã có nhiều tín hiệu khởi sắc, các doanh nghiệp đã ký kết được nhiều  đơn hàng xuất khẩu;  kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt trên 24 triệu USD, tăng 56,06% so với tháng trước, tăng 18,62% so với tháng cùng kỳ năm trước, trong đó: Xuất khẩu ước đạt trên 15 triệu USD, tăng 56,91%, tăng 18,48%; nhập khẩu ước đạt 9 triệu USD, tăng 54,55%, tăng 18,88%. Tuy nhiên, những khó khăn trong sản xuất và sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu từ đầu năm đã tác động đến hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ước đạt 94,56 triệu USD, đạt 36,38% kế hoạch, giảm 18,27% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Xuất khẩu ước đạt 60,46 triệu USD, giảm 14,28%; nhập khẩu ước đạt 34,1 triệu USD, giảm 24,5%. p

Trong 6 tháng đầu năm 2024, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng so với cùng kỳ như: Chè (tăng 79,84%); giấy đế xuất khẩu (tăng 29,08%), giấy in viết, photo thành phẩm tăng 278,5%; hàng dệt may tăng 22,46%;  phong bì (tăng 46,5%),... Tuy nhiên, cũng có một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ như: Bột Barit (giảm 76,24%); đũa gỗ xuất khẩu (giảm 54,1%); antimony thỏi (giảm 38,2%),…

9. Vận tải hàng hóa và hành khách

Từ đầu năm đến nay, nhu cầu đi du lịch, lễ hội, về quê, thăm người thân của người dân, du khách tăng cao. Các đơn vị vận tải đang tích cực tăng cường phương tiện, nhân lực phục vụ nhu cầu đi lại của người dân phục vụ tối đa nhu cầu đi lại của người dân, hàng hóa vận chuyển được thông suốt, tiết kiệm chi phí xã hội; ngành chức năng đã chú trọng, tăng cường xử lý các hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông,  chở quá khổ, quá tải, quá số người quy định, phương tiện không bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường khi lưu thông.p

9.1. Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 6 ước đạt 364 tỷ đồng, tăng 1,87% so với tháng trước, tăng 21,86% so với cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách ước đạt 59 tỷ đồng, tăng 1,09%, tăng 9,66%; vận tải hàng hóa ước đạt 305 tỷ đồng, tăng 2%, tăng 24,46%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 0,5 tỷ đồng, tăng 9,8%, tăng 41,86%; bưu chính, chuyển phát đạt 0,3 tỷ đồng, tăng 9,48%, tăng 74,33%.

- Ước thực hiện quý II/2024 doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1.076 tỷ đồng, tăng 21,23% so với quý cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách ước đạt 175 tỷ đồng, tăng 10,8%; vận tải hàng hóa ước đạt 899 tỷ đồng, tăng 23,45%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1 tỷ đồng, tăng 31,55%; bưu chính, chuyển phát đạt 1 tỷ đồng, tăng 52,71%.

- Tính chung, trong 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 2.173 tỷ đồng, tăng 24,97% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 359 tỷ đồng, tăng 18,14%; vận tải hàng hóa ước đạt 1.810 tỷ đồng, tăng 26,36%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 3 tỷ đồng, tăng 29,73%; bưu chính, chuyển phát đạt 2 tỷ đồng, tăng 41,42%.

9.2. Vận tải hành khách và hàng hóa

9.2.1. Vận tải hành khách

- Hành khách vận chuyển trong tháng 6 ước đạt 1 triệu lượt hành khách, tăng 1,65% so với tháng trước, tăng 7,37% so với cùng kỳ; khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 78 triệu lượt hành khách.km, tăng 1,23%, tăng 12,09%.

- Ước thực hiện quý II/2024, hành khách vận chuyển ước đạt 3 triệu lượt hành khách, tăng 10,74% so với quý cùng kỳ; hành khách luân chuyển ước đạt 231 triệu lượt hành khách.km, tăng 11,8%.

- Tính chung trong 6 tháng, hành khách vận chuyển ước đạt 7 triệu lượt hành khách, tăng 22,57% so với cùng kỳ; hành khách luân chuyển ước đạt 469 triệu lượt hành khách.km, tăng 19%.

9.2.2. Vận tải hàng hóa

- Hàng hóa vận chuyển trong tháng 6 ước đạt 2 triệu tấn, tăng 2,03% so với tháng trước, tăng 24,92% so với cùng kỳ; hàng hóa luân chuyển ước đạt 136 triệu tấn.km, tăng 2,37%, tăng 29,46%.

 - Ước thực hiện quý II/2024, hàng hóa vận chuyển ước đạt 6 triệu tấn, tăng 22,96% so với quý cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 398 triệu tấn.km, tăng 28,16%.

- Tính chung trong 6 tháng, hàng hóa vận chuyển ước đạt 12 triệu tấn, tăng 24,5% so với cùng kỳ; hàng hóa luân chuyển ước đạt 796 triệu tấn.km, tăng 29,66%.

10. Công tác chuyển đổi số và hoạt động bưu chính, viễn thông

10.1. Lĩnh vực chuyển đổi số và Chính quyền số

Với chủ đề chuyển đổi số năm 2024 là năm “Phát triển kinh tế số với 04 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số - Động lực quan trọng cho phát triển kinh tế -xã hội nhanh và bền vững. Tỉnh đã tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành về chuyển đổi số của các sở, ngành và các thành viên Ban Chỉ đạo chuyển đổi số. Cùng với đó là tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc triển khai chuyển đổi số; với mục tiêu Chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh phải lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, làm mục tiêu, động lực nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp một cách thực chất và hiệu quả; hướng tới việc hình thành công dân số, xã hội số.

- Hoàn thành đánh giá kết quả đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số năm 2023 của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang (đối với 19 cơ quan cấp tỉnh, 07 Ủy ban nhân dân huyện/thành phố, 138 Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn).

- Duy trì và đảm bảo kết nối thông suốt 169 điểm cầu của Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến tỉnh Tuyên Quang phục vụ công tác chỉ đạo điều hành từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.

- Xây dựng Phần mềm số hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính, xây dựng cơ sở dữ liệu số hóa kết quả giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh.

- Đến thời điểm hiện tại, tỉnh đã cung cấp 1.843 TTHC, trong đó có 1.088 thủ tục được cung cấp DVC toàn trình, 495 thủ tục được cung cấp DVC một phần, 260 thủ tục là dịch vụ cung cấp thông tin trực tuyến.

10.2. Về hoạt động Bưu chính - Viễn thông

- Toàn tỉnh hiện có hơn 20 doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau. Có 216 điểm cung cấp dịch vụ bưu chính của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì hoạt động phục vụ người dân và doanh nghiệp. 100% các xã có thư báo đến trong ngày.

- Trên địa bàn tỉnh hiện có 05 doanh nghiệp hoạt động viễn thông và Internet. Hạ tầng Internet cáp quang, thông tin di động được triển khai đến 100% các xã, phường, thị trấn trên toàn tỉnh với 1.283 vị trí lắp đặt trạm thu phát sóng BTS, đảm bảo gần 100% các thôn, bản, tổ nhân dân được phủ sóng điện thoại di động, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Hiện nay, Viettel Tuyên Quang đang triển khai thử nghiệm 5G tại Thành phố Tuyên Quang (04 trạm) và huyện Chiêm Hoá (01 trạm). Hạ tầng viễn thông của các doanh nghiệp viễn thông khác đã sẵn sàng đáp ứng cho việc triển khai mạng 5G trong thời gian tới.

- Các Doanh nghiệp bưu chính, viễn thông tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh trong quá trình cung ứng dịch vụ bưu chính; an toàn mạng lưới, thông tin liên lạc thông suốt đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và người dân trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024.

11. Về du lịch

Tỉnh đã tổ chức thành công Lễ Khai mạc năm du lịch tỉnh Tuyên Quang 2024 diễn ra từ ngày 27/4 đến 2/5 với nhiều hoạt động hấp dẫn như: Lễ hội Khinh khí cầu quốc tế Tuyên Quang lần thứ 3 tại Quảng trường Nguyễn Tất Thành. Lễ hội ánh sáng khinh khí cầu quốc tế; trưng bày, giới thiệu sản phẩm du lịch, làng nghề Tuyên Quang với sự góp mặt của hơn 100 gian hàng của tỉnh Tuyên Quang và các tỉnh, thành phố trong cả nước; hội nghị kết nối đầu tư, thương mại, du lịch và làng nghề vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Tuyên Quang. Bên cạnh đó, các địa phương trong tỉnh đã tổ chức các lễ hội mang đậm nét văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc và các điểm du lịch tâm linh trên địa bàn tỉnh như: Lễ hội Lồng Tông; Lễ hội đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La; Lễ hội Hương sắc Na Hang (Lễ hội Hoa Lê); Lễ hội Nhảy lửa của người Pà Thẻn,... các lễ, hội đã phát huy hiệu quả rất tích cực và rõ nét trong việc tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu hình ảnh miền đất, văn hóa, con người và các sản phẩm du lịch hấp dẫn của Tuyên Quang đến với đông đảo nhân dân, du khách trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy du lịch của tỉnh ngày càng phát triển.

Tổng số cơ sở lưu trú toàn tỉnh hiện có 446 cơ sở lưu trú, 4.495 buồng, 6.361 giường, trong đó có 01 khách sạn 4 sao; 34 khách sạn 1-2 sao; trên 250 nhà hàng ẩm thực có quy mô lớn; trên địa bàn tỉnh hiện có 16 công ty, chi nhánh, đại lý lữ hành hoạt động (trong đó có 3 công ty lữ hành quốc tế, 13 công ty lữ hành nội địa); Từ đầu năm đến nay, các khu, điểm du lịch ước đón khoảng 1.860.000 lượt khách du lịch (trong đó 4.000 lượt khách quốc tế), đạt 68% kế hoạch, tăng 2% so với cùng kỳ; tổng thu từ khách du lịch đạt 2.271 tỷ đồng, đạt 63% kế hoạch, tăng 9% so với cùng kỳ.

II. LĨNH VỰC VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Về lao động việc làm

Xác định công tác giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế xã hội tại địa phương; thời gian qua, tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bằng nhiều hình thức; đặc biệt là tăng cường liên kết đào tạo giữa cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh thông qua nhiều hình thức hợp đồng liên kết đào tạo và tuyển dụng sau đào tạo, huy động tối đa các nguồn lực sẵn có trong dân để tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động, góp phần tích cực vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.p

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tạo việc làm cho 16.875 người, đạt 75,63% kế hoạch, tăng 12,15% so với cùng kỳ, trong đó: Lao động làm việc trong các ngành kinh tế tại tỉnh 10.650 người; đi làm việc tại các tỉnh, thành phố trong nước 5.608 người; đi làm việc ở nước ngoài 617 người.

2. Đời sống dân cư

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, giá các mặt hàng thiết yếu như giá lương thực, thực phẩm tăng, giá nhiên liệu, năng lượng có xu hướng tăng dẫn đến chi phí sinh hoạt tăng theo, đã ảnh hưởng đến đời sống của nhiều hộ gia đình, đặc biệt là nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình, người dân dần thắt chặt chi tiêu hơn cho tiêu dùng cá nhân, cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết.

Tình hình hoạt động của nhiều doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, sụt giảm về doanh thu, tình trạng thiếu hụt đơn hàng bị kéo dài, thị trường bị thu hẹp, nhất là các thị trường lớn,…Trong bối cảnh nêu trên, nhiều chính sách chính sách, giải pháp điều hành của Chính phủ đã phát huy tác động tích cực nhất là các giải pháp về phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, nhằm hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp, hỗ trợ về nguồn vốn,…; bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã khắc phục khó khăn về tài chính để chi trả lương cho người lao động đảm bảo đời sống ổn định.

Nhìn chung, tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và từng bước được cải thiện hơn; không xảy ra tình trạng thiếu đói; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiếp tục ổn định, người lao động có thu nhập ổn định từ tiền lương đảm bảo phần nào cho nhu cầu cuộc sống.

3. Công tác người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội

3.1. Công tác đối với người có công với cách mạng

Tiếp tục thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân người có công; đẩy mạnh thực hiện các phong trào, hoạt động "Đền ơn, đáp nghĩa", "Uống nước nhớ nguồn", nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công,…

Triển khai các hoạt động tặng quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh đối với người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024. Tổng số là 16.479 suất quà, với tổng kinh phí là 6.915,4 triệu đồng. Trong đó: Quà của Chủ tịch nước: 7.886 suất, số tiền 2.444,7 triệu đồng; quà của tỉnh: 8.530 suất, số tiền 4.396,5 triệu đồng,… lãnh đạo tỉnh cũng đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà đối với các gia đình người có công với cách mạng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh.

3.2. Công tác xã hội

- Tỉnh đã triển khai thực hiện công tác trợ giúp xã hội, chăm lo, giúp đỡ các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ cho các hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thiếu lương thực nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024; toàn tỉnh đã hỗ trợ 9.557 hộ, với 28.019 nhân khẩu, tổng số 420.285 kg gạo (Dịp tết nguyên đán: Tổng số hộ cứu trợ gạo 5.014 hộ, 14.645 khẩu, 219.675 kg gạo; dịp giáp hạt: Tổng số hộ cứu trợ gạo 4.543 hộ, 13.374 khẩu, 200.610 kg gạo). Thường xuyên rà soát, nắm chắc tình hình đời sống ngân dân, kịp thời hỗ trợ các hộ gia đình, cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gặp tai nạn rủi ro bất khả kháng. Duy trì trợ cấp hàng tháng cho trên 38.000 đối tượng bảo trợ xã hội bảo trợ xã hội tại cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng triển khai các hoạt động thăm, tặng quà các đối tượng hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh.

4. Hoạt động giáo dục và đào tạo

Ngành giáo dục của tỉnh tiếp tục đẩy mạnh các mô hình mới, cách làm sáng tạo để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Mạng lưới trường, lớp ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập của người dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tiếp tục được bổ sung. Công tác xã hội hóa giáo dục được quan tâm, đẩy mạnh; giáo dục ngoài công lập bước đầu được khuyến khích phát triển

Tỉnh đã tổ chức Lễ Trao tặng danh hiệu “Nhà giáo ưu tú” lần thứ 16 năm 2023 và Tuyên dương học sinh, sinh viên đạt giải cao; giáo viên, giảng viên có học sinh, sinh viên đạt giải trong các kỳ thi cấp tỉnh, cấp quốc gia năm học 2023-2024. Tại buổi lễ, có 12 nhà giáo được trao tặng danh hiệu “Nhà giáo ưu tú” lần thứ 16 năm 2023; 122 học sinh đạt giải cao tại các kỳ thi cấp tỉnh, cấp quốc gia và 23 giáo viên có học sinh đạt giải trong các kỳ thi cấp tỉnh, cấp quốc gia năm học 2023-2024 và 1 tập thể được tuyên dương, khen thưởng.

Tổ chức thành công Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 các trường THPT và trường liên cấp có bậc THPT trên địa bàn tỉnh với hơn hơn 12.000 thí sinh dự thi không có trường hợp thí sinh, giám thị vi phạm quy chế thi bị đình chỉ, kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế và đúng kế hoạch đề ra.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay, Tuyên Quang có 9.022 thí sinh đăng ký dự thi, trong đó có 357 thí sinh tự do. Toàn tỉnh có 29 điểm thi, 458 phòng thi, lực lượng tham gia tổ chức kỳ thi hơn 1.600 người, nhằm chuẩn bị tốt nhất cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT, hiện nay, các trường THPT trên địa bàn tỉnh đã tập trung công tác ôn tập cho học sinh lớp 12, trong quá trình ôn tập các trường đã thường xuyên kiểm tra, đánh giá, phân loại học sinh để điều chỉnh phương pháp ôn tập cho hiệu quả chất lượng học sinh để điều chỉnh phương án ôn tập cho phù hợp, đạt hiệu quả cao, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền để phụ huynh, thí sinh và nhân dân hiểu rõ về kỳ thi.

Các huyện thành phố đã tổ chức Lễ khai mạc Hội khoẻ Phù Đổng các vận động viên tham gia là học sinh các trường tiểu học, THCS đã đạt kết quả cao trong Hội khoẻ Phù Đổng cấp trường, cấp cụm. Các vận động viên tham gia thi đấu các môn như: Bóng đá, cầu lông, điền kinh, đẩy gậy, cờ vua, võ cổ truyền, vovinam. Đây là ngày hội thể thao học đường lớn nhất của các em học sinh tại các huyện, thành phố; là dịp để ngành giáo dục và các nhà trường đánh giá công tác giáo dục thể chất và sự phát triển của phong trào thể dục thể thao học đường; nhằm tiếp tục duy trì và đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”; khơi dậy tiềm năng thể dục, thể thao ở lứa tuổi học sinh, thúc đẩy phong trào ở các nhà trường. Tại Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc lần thứ X, khu vực I (bao gồm các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc) được tổ chức tại thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ, đoàn Tuyên Quang có 64 VĐV tham gia thi đấu 5 môn gồm: đẩy gậy, điền kinh, cầu lông, bóng đá, kéo co. Kết quả, đoàn đã giành 25 huy chương, Trong đó môn điền kinh giành 16 huy chương gồm 6 Huy chương Vàng, 4 Huy chương Bạc và 6 Huy chương Đồng; môn cầu lông giành 4 huy chương gồm 1 Huy chương Bạc và 3 Huy chương Đồng; môn đẩy gậy giành 5 Huy chương Đồng.

5. Hoạt động y tế

- Từ đầu năm đến nay, thời tiết diễn biến phức tạp nắng nóng, xen kẽ các đợt mưa rào và giông lốc cục bộ có nơi mưa rất to, nguy cơ gia tăng, bùng phát các dịch bệnh truyền nhiễm như: Sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng, bạch hầu, ho gà và một số bệnh truyền nhiễm khác. Để chủ động phòng, chống các bệnh dịch truyền nhiễm bùng phát trong mùa hè, tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp phòng, chống dịch; chủ động theo dõi, giám sát, phát hiện sớm, xử lý kịp thời triệt để các ổ dịch bệnh truyền nhiễm, không để lây lan, bùng phát lan rộng ra cộng đồng; kịp thời khoanh vùng, xử lý triệt để các ổ dịch (nếu có), chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, thuốc men để thu dung điều trị kịp thời cho bệnh nhân không để dịch bùng phát trở lại và hạn chế tối đa xảy ra nguy cơ dịch chồng dịch.

- Về công tác khám chữa bệnh: Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm quá tải, nâng cao chất lượng dịch vụ các tuyến. Tổ chức kiểm tra giám sát công tác khám chữa bệnh ở một số Bệnh viện, Trạm Y tế xã nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc trong công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là khám chữa bệnh BHYT thanh toán theo giá dịch vụ y tế mới. Tổng số lượt khám bệnh trong 6 tháng đầu năm đạt 629.386 lượt người. Trong đó: Bệnh viện tuyến tỉnh: 145.027lượt, Trung tâm Y tế huyện: 247.069 lượt, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 26.000lượt, Trạm Y tế xã, phường, thị trấn: 177.045lượt. Công suất sử dụng giường bệnh tại Bệnh viện tuyến tỉnh: 108,9%, Trung tâm Y tế huyện: 105,8% và Bệnh viện Đa khoa khu vực: 85,7%. Ngày điều trị trung bình tại Bệnh viện tuyến tỉnh: 7,2 ngày, Trung tâm Y tế huyện: 5,6 ngày, Bệnh viện Đa khoa khu vực: 5,7 ngày.

- Công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) cũng đã được tỉnh triển khai bằng nhiều giải pháp như: Tăng cường công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng; triển khai công tác hậu kiểm chất lượng, giám sát các mối nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; các cơ quan chức năng đã thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng ATVSTP tại 1.802 cơ sở, đạt 62,6% kế hoạch; xử lý 66 cơ sở vi phạm các quy định về ATVSTP; thẩm định và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATVSTP cho 76 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại các huyện, thành phố, đạt 61,3% kế hoạch.Từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã ghi nhận 05 vụ ngộ độc thực phẩm với 158 người mắc; không có trường hợp tử vong.

6. Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao

- Lĩnh vực văn hoá: Nhiều hoạt động văn hóa được tổ chức tại các địa phương trong tỉnh với quy mô và nhiều hoạt động, đáp ứng nhu cầu của người dân và du khách tham quan trong và ngoài tỉnh; tổ chức các hoạt động tuyên truyền Kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước và các sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh, nổi bật, như: Chương nghệ thuật “Tuyên Quang chào năm 2024”; khai mạc Hội  báo  Xuân Giáp  Thìn và phát động Giải báo chí toàn quốc về Xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ IX năm 2024; triển lãm, giới thiệu thành tựu văn hóa, con người Tuyên Quang trong thời gian diễn ra Hội nghị Văn hóa toàn tỉnh và tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam phát triển bền vững đất nước..... Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh được triển khai sâu rộng.

- Lĩnh vực thể dục, thể thao: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động ''Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại''. Tỉnh đã phối hợp với Cục Thể dục thể thao tổ chức đăng cai giải cầu lông CLB các tỉnh, thành, ngành toàn quốc năm 2024 với sự tham gia của 25 đoàn đến từ 22 tỉnh, thành, ngành trong cả nước với trên 200 vận động viên thi đấu, tranh tài ở 5 nhóm tuổi nam và nữ. Kết thúc giải, Ban Tổ chức trao huy chương cho các vận động viên có thành tích thi đấu xuất sắc ở 5 nhóm tuổi (nhóm 1 từ 12 - 30 tuổi, nhóm 2 từ 31 - 40 tuổi, nhóm 3 từ 41 - 45 tuổi, nhóm 4 từ 46 - 50 tuổi và nhóm 5 từ 51 - 55 tuổi) và trao cúp Thành Công cho đoàn có thành tích thi đấu xuất sắc tại giải; tỉnh đã tổ chức thành công giải “Giải đua thuyền Kayak” tỉnh Tuyên Quang mở rộng năm 2024; giải bóng chuyền hơi toàn tỉnh, giải Quần vợt các câu lạc bộ tỉnh Tuyên Quang năm 2024, Ngày chạy Olympic toàn dân và giải Việt dã Tiền Phong năm 2024; Giải Giải đua thuyền Kayak mở rộng, Giải bóng đánữ các dân tộcthiểu sốtỉnh Tuyên Quang năm 2024, Giải bóng đá thiếu niên -nhi đồng tỉnh Tuyên Quang năm 2024. …

7. Một số hoạt động tiêu biểu khác

- Các địa phương trên địa bàn tỉnh đã đồng loạt tổ chức lễ giao nhận quân năm 2024 với không khí vui tươi, phấn khởi. Công tác giao nhận quân diễn ra long trọng, đúng thời gian, đảm bảo nhanh gọn, đủ chỉ tiêu, tiết kiệm và an toàn. Trong đợt giao quân năm nay, toàn tỉnh có 1.375 tân binh, tham gia nghĩa vụ quân sự và công an. Trong đó, 1.150 tân binh tham gia nghĩa vụ quân sự, 225 tân binh tham gia nghĩa vụ công an. Ngoài ra, Hội đồng Nghĩa vụ quân sự các huyện, thành phố phát lệnh gọi nhập ngũ cho 66 tân binh dự phòng.

- Tỉnh đã khai trương Trung tâm Giám sát điều hành hành thông minh của  tỉnh Tuyên Quang. Trung tâm cớ chức năng thu thập cơ sở dữ liệu chuyên ngành của cơ quan, đơn vị và xử lý, phân tích cho kết quả đầu ra đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền và cơ quan, đơn vị. Trung tâm sẽ phục vụ đắc lực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, giúp lãnh đạo tỉnh có cái nhìn tổng quan, toàn diện về mọi hoạt động kinh tế - xã hội theo thời gian thực. Từ đó, đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời, chuẩn xác, tiết kiệm thời gian, công sức trong giám sát, điều hành công việc. Ngoài ra, kết nối thông tin, cập nhật dữ liệu phục vụ công tác xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trung và dài hạn một cách bền vững.

- Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) năm 2023. Trong báo cáo kết quả công bố, chỉ số PCI năm 2023 của tỉnh Tuyên Quang đạt 65,45 điểm, tăng 2,59 điểm so với điểm PCI năm 2022, tăng 02 bậc so với năm trước và xếp thứ 50/63 tỉnh, thành phố trên cả nước; xếp thứ 10/14 tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.

- Theo số liệu đã công bố Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2023 (SIPAS) của tỉnh Tuyên Quang tỷ lệ hài lòng trung bình của người dân, tổ chức về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Tuyên Quang năm 2023 đạt 82,83%, xếp thứ 26/63 tỉnh, thành phố (tăng 1,11% so với năm 2022). Chỉ số CCHC năm 2023 (PAR Index) của tỉnh đạt 88,46%, xếp thứ 16/63 tỉnh, thành phố (tăng 3,12%, tăng 16 bậc so với năm 2022).

- Về Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp của Tuyên Qaung năm 2023 đạt 33,74 điểm, đứng thứ 43 toàn quốc và xếp thứ 5 trong khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương do Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng gồm 52 chỉ số thành phần.

8. Tình hình an toàn giao thông, thiên tai và phòng chống cháy, nổ

8.1. Về an toàn giao thông

Tỉnh tiếp tục triển khai đợt cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi, vi phạm trật tự, an toàn giao thông, nhất là vi phạm về nồng độ cồn khi lái xe; vi phạm tốc độ, tránh, vượt sai quy định; vi phạm chở hàng quá tải trọng; phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật; không đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy, xe đạp điện; tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát trên các tuyến cao tốc, tuyến quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, là những nơi thường xảy ra tai nạn giao thông.

 Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 05 người và bị thương 11 người. So với tháng trước giảm 12,5% về số vụ tai nạn, số người chết tăng 25%, số người bị thương giảm 8,33%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 7,69%, số người chết tăng 400%, số người bị thương giảm 21,43%.

Trong quý II/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 45 vụ tai nạn giao thông, làm chết 15 người và làm bị thương 34 người. So với cùng quý năm trước: Số vụ tai nạn giao thông tăng 18,42% (tăng 07 vụ); số người chết tăng 36,36% (tăng 04 người); số người bị thương giữ nguyên.p

Trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh đã xảy ra; 83 vụ tai nạn giao thông, 35 người chết và 66 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước: Số vụ tai nạn giao thông giảm 1,19% (giảm 01 vụ); số người chết tăng 25% (tăng 07 người); số người bị thương giảm 7,04% (giảm 05 người).

8.2. Về cháy nổ

Tháng 6/2024, toàn tỉnh không xảy ra vụ cháy, nổ nào. Tính chung 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy tại cây xăng ở xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, thiệt hại về tài sản ước tính 1.250 triệu đồng, vụ cháy không gây thiệt hại về người và tài sản của nhân dân.p

8.3. Thiệt hại do thiên tai

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra các đợt mưa lớn trên diện rộng kèm theo giông, lốc, gió giật mạnh đã gây lũ, ngập lụt và sạt lở đất các khu vực ven suối đã gây ra những thiệt hại về tài sản của người dân, làm ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân, cụ thể như sau:

Thiệt hại về người: Không có.

Thiệt hại về nhà ở: 1.928 nhà bị tốc mái và hư hỏng nặng, 02 nhà phải di dời khẩn cấp.

Thiệt hại về nông nghiệp và công trình giao thông: Diện tích lúa bị thiệt hại và ảnh hưởng là 516 ha, 0,091 ha mạ bị thiệt hại; trên 1.101,46  ha cây ngô, rau màu bị ảnh hưởng, 12,66 ha cây trồng hàng năm bị thiệt hại, diện tích cây lâm nghiệp bị thiệt hại 958,84 ha; diện tích ao bị tràn bờ là 2.157,54 ha, cuốn trôi 450 kg cá; 10 con gia súc và 600 con gia cầm bị thiệt hại,….

Thiệt hại về cơ sở hạ tầng: 03 trụ sở cơ quan bị thiệt hại: 01 điểm trường bị thiệt hại và 02 trạm y tế bị thiệt hại.

Thiệt hại về giao thông: 80m đường giao thông bị sạt lở, hư hỏng gây ách tắc: 12 điểm; khối lượng đất sạt lở trên 8.594,41 m3. Ước tính tổng giá trị thiệt hại của các đợt thiên tai là trên 30.601 triệu đồng.

Theo dự báo từ nay đến hết năm, trên địa bàn tỉnh sẽ còn xuất hiện nhiều đợt thiên tai xảy ra; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng, đặc biệt là nơi có địa hình dốc, khu vực có kết cấu đất đá kém ổn định, vùng trũng thấp, ven sông suối. Để chủ động ứng phó với các điều kiện thời tiết cực đoan, tỉnh đã yêu cầu các ngành chức năng, địa phương tập trung theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết để chủ động tổ chức di dời, sơ tán người dân khi có tình huống xảy ra; đồng thời, kiểm tra rà soát và thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn công trình giao thông, thủy lợi, chủ động các biện pháp ứng phó nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra.

9. Đánh giá chung

Đánh giá chung, Tình hình kinh tế - xã hội của cả nước 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục duy trì xu hướng tích cực, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo, hoạt động xuất khẩu tiếp tục xu hướng tăng khá trong bối cảnh thương mại toàn cầu gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tình hình thế giới vẫn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động, ảnh hưởng nặng nề trên nhiều lĩnh vực; căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, xung đột tại Nga - Ukraine tiếp tục kéo dài, căng thẳng trên biển Đỏ, dải Gaza tiếp tục leo thang, giá các loại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng và các hoạt động xuất khẩu, sự phục hồi của các đối tác thương mại lớn còn chậm; các chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất kéo dài để kiềm chế lạm phát,... những yếu tố trên là những khó khăn, thách thức tác động đến tình hình phát triển kinh tế của cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng.

Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn duy trì đà tăng trưởng và đạt được nhiều kết quả tích cực so với các tỉnh trong khu vực: Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2024 tăng 8,84% (GRDP quý I tăng 9,12%, quý II tăng 8,6%); tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để xây dựng nhiều công trình, dự án trọng điểmtiến độ giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh, tỷ lệ giải ngân cao hơn mức trung bình cả nước; số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng; môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; đã tích cực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án đầu tư ngoài ngân sách; thu hút được các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,...Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số khó khăn, thách thức: Một số sản phẩm công nghiệp và sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của tỉnh còn đạt thấp so với kế hoạch; nguồn thu nội địa còn đạt thấp so với kế hoạch; tiến độ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc còn chậm; công tác giải phóng mặt bằng một số dự án hoàn thành trong năm 2024 chưa dứt điểm như: Dự án xây dựng đường từ Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến Quốc lộ 2D; dự án Cầu Xuân Vân; dự án Đầu tư xây dựng cầu và tuyến đường tránh thị trấn Sơn Dương; về đất đắp cho công trình khu tái định cư và xây dựng các khu tái định cư Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang chưa đáp ứng tiến độ đề ra,...

10. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2024

Với quyết tâm hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đã đề ra trong năm 2024. Để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu theo kế hoạch cần phải tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Một là, chủ động, tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn tỉnh, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu đạt mục tiêu giải ngân cao nhất số vốn đầu tư công được giao theo kế hoạch; đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang (giai đoạn 1); đường từ Thành phố Tuyên Quang đi Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm; xây dựng cầu và đường tránh thị trấn Sơn Dương; đường từ Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm đến Quốc lộ 2D; Bệnh viện đa khoa tỉnh, Trường Trung học phổ thông Chuyên tại địa điểm mới,… và các dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia,... các dự án trên khi hoàn thành sẽ hình thành vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

Hai là, Tiếp tục thực hiện đồng bộ, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh; chú trọng công tác chuyển đổi số đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế; kịp thời hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh.

Ba là, Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp phát triển công nghiệp, xây dựng với trọng tâm vào các ngành mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế như: Công nghiệp chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp dệt may, da giày, điện tử,…  đôn đốc tiến độ và kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án công nghiệp trọng điểm, để các dự án sớm hoàn thành đầu tư đưa vào sản xuất, nhằm gia tăng sản lượng và đóng góp thêm các sản phẩm công nghiệp mới và có phương án bù đắp các sản phẩm thiếu hụt, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu sản xuất công nghiệp theo kế hoạch.

Bốn là, tập trung triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2023; tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhà nước; rà soát, xác định chính xác những nguồn thu còn tiềm năng, nguồn thu chưa khai thác hết, còn dư địa để tổ chức thực hiện, khai thác tăng thu, bù đắp các khoản hụt thu; phấn đấu hoàn thành dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn.

Năm là, triển khai đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ về các gói hỗ trợ hồi phục kinh tế như: Hỗ trợ lãi suất 2%/năm thuế giá trị gia tăng đối với tất cả nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất giá trị gia tăng 10% xuống còn 8% (từ ngày 01/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024); gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,... Đây là những giải pháp rất cần thiết, là nguồn lực đáng kể để tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, góp phần làm giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp có nguồn lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh, nhanh chóng khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước.


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác

EMC Đã kết nối EMC