Nhìn chung, trong 9 tháng năm 2024 tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, khi các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, Tỉnh tiếp tục tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư. Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh trong 9 tháng năm 2024 tăng trưởng hơn so với cùng kỳ năm trước như: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,84%; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,61%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,72%; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tăng 4,52%; tổng doanh thu vận tải và dịch vụ kho bãi tăng 10,56%, …. Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội cũng được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện, vì vậy đời sống của người dân trên địa bàn tỉnh cũng được cải thiện hơn trước. Cụ thể kết quả đạt được từng lĩnh vực như sau:
1. Tài chính, tín dụng
1.1. Tài chính
Ước tính tháng 9/2024, tổng thu ngân sách nhà nước được 995,53 tỷ đồng, luỹ kế được 12.713,46 tỷ đồng, đạt 103,89% dự toán Trung ương, đạt 78,87% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh. Trong đó:
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn: 510 tỷ đồng, luỹ kế được 4.469,04 tỷ đồng, đạt 71,12% dự toán Trung ương, đạt 59,59% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 410 tỷ đồng, luỹ kế được 4.075,88 tỷ đồng, đạt 70,50% dự toán Trung ương, đạt 59,54% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 100 tỷ đồng, luỹ kế được 393,17 tỷ đồng, đạt 78,16% dự toán Trung ương, đạt 56,17% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.
- Trung ương trợ cấp 485,53 tỷ đồng, luỹ kế được 4.785,36 tỷ đồng, đạt 80,38% dự toán Trung ương, đạt 79,58% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.
Ước tính tháng 9/2024, tổng chi ngân sách địa phương được 814,84 tỷ đồng, luỹ kế được 9.083,32 tỷ đồng, đạt 80,30% dự toán Trung ương, đạt 58,14% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản: 134,62 tỷ đồng, luỹ kế được 5.276,60 tỷ đồng, đạt 86,76% dự toán Trung ương giao, đạt 57,32% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 680,22 tỷ đồng, luỹ kế được 3.803,21 tỷ đồng, đạt 74,99% dự toán Trung ương giao, đạt 62,43% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/8/2024, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 24.238 tỷ đồng, tăng 6,65% so với cuối năm 2023. Vốn huy động đáp ứng được 59,09% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 14.105 tỷ đồng (chiếm 58,19% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.133 tỷ đồng (chiếm 41,81% tổng huy động). Trong kỳ báo cáo, lãi suất huy động của một số ngân hàng thương mại trên địa bàn (Nông nghiệp, Lộc Phát, Kiên Long, Á Châu, Đông Á, Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Á Châu) có xu hướng tăng nhẹ ở kỳ hạn từ 01 đến dưới 03 tháng, từ 03 đến dưới 06 tháng; lãi suất của các tổ chức tín dụng khác vẫn duy trì ở mức ổn định. Hiện, lãi suất huy động không kỳ hạn đến dưới 01 tháng phổ biến ở mức 0,5%/năm; từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 2,8-3,5%/năm; từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 4,2-4,6%/năm; từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 4,9-5,4%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2024, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 24.473 tỷ đồng, tăng trưởng 7,69% so với cuối năm 2023.
Đến ngày 31/8/2024, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 41.020 tỷ đồng, tăng trưởng 2,53% so với cuối năm 2023. Trong kỳ, phần lớn các tổ chức tín dụng trên địa bàn có dư nợ tăng, tuy nhiên, tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Hậu Giang thực hiện bàn giao khoản vay của 01 khách hàng (dư nợ 3.028 tỷ đồng) cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Tây Đô quản lý làm cho dư nợ toàn địa bàn giảm mạnh trong tháng 8/2024. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 20.749 tỷ đồng (chiếm 50,58% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 20.270 tỷ đồng (chiếm 49,42% tổng dư nợ). Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với các lĩnh vực ưu tiên là 4,0%/năm (ngắn hạn), 7,5% -10% (trung và dài hạn); các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân từ 6,5-10%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn bình quân từ 9-10,5%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2024, dư nợ đạt 41.920 tỷ đồng, tăng trưởng 4,78% so với cuối năm 2023.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 8/2024 là 1.192 tỷ đồng, chiếm 2,91%/tổng dư nợ; nợ xấu là 735 tỷ đồng, chiếm 1,79%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 457 tỷ đồng, chiếm 1,11%/tổng dư nợ. Phấn đấu đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn vẫn duy trì dưới mức 3%/tổng dư nợ theo mục tiêu đã đề ra.
Một số chương trình tín dụng trọng điểm tính đến cuối tháng 8/2024: Dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương đạt được kết quả sau:
- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 3.080 tỷ đồng, tăng trưởng 8,91% so với cuối năm 2023.
- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 1.273 tỷ đồng, giảm 66,79% so với cuối năm 2023.
- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 4.401 tỷ đồng, tăng trưởng 7,81% với cuối năm 2023.
- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 25.845 tỷ đồng, tăng trưởng 6,75% so với cuối năm 2023.
- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 383 tỷ đồng, tăng trưởng 19,69% so với cuối năm 2023.
- Cho vay xây dựng nông thôn mới toàn địa bàn dư nợ 17.765 tỷ đồng, tăng trưởng 6,68% so với cuối năm 2023.
- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp dư nợ đạt 13.469 tỷ đồng, tăng trưởng 15,89% so với cuối năm 2023, với 747 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.
- Chương trình tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ và Chương trình tín dụng 30 nghìn tỷ đồng hỗ trợ lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm hiện tại trên địa bàn chưa phát sinh dư nợ.
2. Đầu tư và xây dựng
2.1. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2024 là 26.158,94 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 6.987,69 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 5.200,75 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 13.970,50 tỷ đồng.
Ước tính tháng 9/2024, vốn đầu tư thực hiện được 2.296,20 tỷ đồng, bằng 104,32% so với tháng trước và bằng 116,32% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 669,20 tỷ đồng; Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 445,50 tỷ đồng; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.181,50 tỷ đồng.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 18.833,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,84%1, đạt 72,00% so với kế hoạch năm (26.158,94 tỷ đồng) và đạt 75,43% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân tỉnh năm 2024 (24.970 tỷ đồng), so với kịch bản tăng trưởng (18.225 tỷ đồng) đạt 103,34%. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 4.660,01 tỷ đồng, bằng 121,77% so với cùng kỳ năm trước và đạt 66,69% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 3.715,71 tỷ đồng, bằng 229,51% so với cùng kỳ năm trước và đạt 71,45% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 10.457,93 tỷ đồng, bằng 94,24% so với cùng kỳ năm trước và đạt 74,86% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 theo mục tiêu đề ra theo các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh; đặc biệt là Kế hoạch 76/KH-UBND của UBND tỉnh ngày 08/04/2024 về việc thực hiện và giải ngân Kế hoạch vốn đầu tư công và vốn sự nghiệp thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia năm 2024, các Chủ đầu tư cần phối hợp với sở, ngành địa phương cần thực hiện một số giải pháp:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2024.
- Tập trung tối đa nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, hoàn thiện các hạng mục công trình, hoàn thành công tác nghiệm thu, thanh toán và giải ngân vốn cho nhà thầu; khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành năm 2024.
- Triển khai thực hiện các thủ tục đầu tư đúng quy định nhằm đảm bảo thời gian giải ngân kế hoạch vốn và tiến độ thực hiện các dự án khởi công mới.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2024 của các dự án có tỷ lệ giải ngân thấp, các dự án không có khả năng giải ngân hết vốn được giao sang các dự án có khả năng giải ngân cao, có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán,… đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
2.2. Xây dựng
Ước tính quý III/2024, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 2.043,33 tỷ đồng, tăng 3,46% so với quý trước và tăng 12,45% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành được 3.412,13 tỷ đồng, tăng 2,94% so với quý trước và tăng 13,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
+ Công trình nhà ở được 1.009,53 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,59% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 19,12% so quý trước và giảm 33,11% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do tình hình mưa nhiều trong những tháng vừa qua, nên tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nhà ở chậm tiến độ so với dự tính,… Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất công trình nhà ở giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước.
+ Công trình nhà không để ở được 463,94 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,6% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, giảm 4,87% so với quý trước và giảm 4,64% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do các công trình nhà không để ở như: Nhà kho, nhà xưởng, các hoạt động xây mới và sửa chữa cơ quan, trường học đã chủ động thực hiện trong 6 tháng đầu năm, nên giá trị sản xuất dự tính quý III/2024 giảm so quý trước và cùng kỳ năm trước.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 1.762,96 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 51,67% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 25,05% so với quý trước và tăng 95,24% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân các dự án công trình kỹ thuật dân dụng tăng cao so với cùng kỳ là do loại công trình này là những công trình lớn, thời gian hoàn thành thường trên 12 tháng như: Xây dựng Đường tỉnh 927C, tổng mức đầu tư gói thầu 73,8 tỷ đồng, dự tính thực hiện trong quý được 9 tỷ đồng, cộng dồn từ đầu năm đến cuối quý được 24,6 tỷ đồng, công trình đã giải ngân hoàn thành được 33,33% giá trị công trình; Xây dựng cầu dự án đường cao tốc Cần Thơ - Hậu Giang, tổng mức đầu tư gói thầu 400 tỷ đồng, dự tính thực hiện trong quý được 30 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 25,25% khối lượng công trình; Xây dựng đường tỉnh 929, tổng mức đầu tư gói thầu 150,45 tỷ đồng, dự tính thực hiện trong quý được 22,35 tỷ đồng, cộng dồn đến cuối quý công trình đã hoàn thành được 44,29% khối lượng công trình,… Ngoài ra, một số công trình khác có quy mô tương đối lớn được khởi công đầu tư xây dựng trong giai đoạn trước, hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện và dự tính được hoàn thành trong quý còn lại của năm 2024. Vì vây, công trình kỹ thuật dân dụng còn tăng cao trong quý tiếp theo.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 175,68 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,14% trong tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng, tăng 3,87% so với quý trước và tăng 62,92% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, giá trị sản xuất ngành xây dựng:
- Tính theo giá so sánh 2010 được 5.735,36 tỷ đồng, tăng 14,29% so với cùng kỳ năm trước và đạt 100,27% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra.
- Tính theo giá hiện hành được 9.599,61 tỷ đồng, tăng 15,18% so với cùng kỳ năm trước và đạt 99,58% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra. Trong đó:
+ Công trình nhà ở được 3.448,50 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 35,92% trong toàn ngành và giảm 21,61% so với cùng kỳ năm trước.
+ Công trình nhà không để ở được 1.229,59 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12,81% trong toàn ngành và giảm 15,59% so với cùng kỳ.
+ Công trình kỹ thuật dân dụng được 4.425,08 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 46,1% trong toàn ngành và tăng 101,44% so với cùng kỳ năm trước.
+ Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 496,43 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,17% trong toàn ngành và tăng 76,02% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân giá trị sản xuất ngành xây dựng ước thực hiện 9 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước là do hiện nay những dự án khởi công mới được khẩn trương triển khai thực hiện (chủ yếu là các công trình xây dựng dân dụng và xây dựng chuyên dụng), công tác phối hợp các bên liên quan đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu; các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay, giá trị xây dựng trên địa bàn tỉnh chủ yếu được thực hiện tập trung vào các hạng mục công trình nâng cấp, mở rộng các tuyến đường tỉnh, tuyến lộ nông thôn và các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh. Riêng một số công trình có mức đầu tư lớn hầu hết được các đơn vị nhà thầu ngoài tỉnh thi công. Do vậy, để giúp ngành xây dựng phát triển và tiếp tục nâng cao giá trị sản xuất trong thời gian tới kiến nghị các ngành chức năng, các cấp, các ngành có kế hoạch chỉ đạo tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị thi công hoàn thành các hạng mục công trình theo đúng tiến độ đề ra.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng, có 75 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong đó có 53 doanh nghiệp tư nhân và công ty, 22 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh), tăng 19 doanh nghiệp so với tháng trước. Tổng số vốn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 278 tỷ đồng, giảm 11 tỷ đồng so với tháng trước; có 10 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 11,4 tỷ đồng; có 13 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 5,5 tỷ đồng (trong đó có 03 doanh nghiệp tư nhân và công ty; chấm dứt hoạt động 10 đơn vị trực thuộc), so với tháng trước tăng 03 doanh nghiệp, giảm 18,8 tỷ đồng về vốn.
Lũy kế đến tháng 9/2024, có 750 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, trong đó gồm 560 doanh nghiệp tư nhân và công ty, 208 đơn vị trực thuộc (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh) tăng 22% về số lượng doanh nghiệp so cùng kỳ. Tổng số vốn đăng ký là 3.813 tỷ đồng, tăng 94% về vốn so cùng kỳ; có 240 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 178,66 tỷ đồng; có 186 doanh nghiệp đăng ký giải thể (trong đó có 41 doanh nghiệp tư nhân và công ty, tổng vốn là 170 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động 145 đơn vị trực thuộc). Đến nay có 4.007 doanh nghiệp còn hoạt động, tổng vốn là 71.080 tỷ đồng.
Xu hướng sản xuất kinh doanh: Đến thời điểm quý III/2024, trên địa bàn tỉnh có trên 267 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp trong quý III/2024 có 52,50% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý II/2024, có 32,50% doanh nghiệp đánh giá không có biến động nhiều so với quý II/2024, còn lại 15% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất gặp khó khăn, sản lượng không tăng so với quý II/2024. Dự tính quý IV/2024, có 60% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý III/2024, theo nhận định của doanh nghiệp thì trong quý IV/2024, thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước tiếp tục tăng trưởng so với thời điểm suy thoái kinh tế thế giới trong quý III/2023, nguồn cung nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động sẵn có tại địa phương, cộng thêm các tuyến đường cao tốc đang đầu tư xây dựng đi qua địa bàn tỉnh,… đó là những tiềm năng, thế mạnh thúc đẩy công nghiệp Hậu Giang phát triển ổn định, bền vững trong quý cuối năm và các năm tiếp theo.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Hiện tại ngành Nông nghiệp chỉ đạo thu hoạch dứt điểm diện tích lúa Hè thu 2024 còn lại, khuyến cáo nông dân ở những nơi có điều kiện đảm bảo về đê bao, chủ động bơm nước phòng chống lũ, ngập úng khi xuống giống lúa Thu đông 2024. Chỉ đạo đơn vị chuyên môn phân công cán bộ kỹ thuật theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, sâu bệnh hại để kịp thời thông báo, hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật kịp thời trên tất cả các loại cây trồng. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh có bùng phát nhưng vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn tiếp tục được phát triển. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
4.1. Nông nghiệp
4.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu năm 2024: Nông dân trên địa bàn tỉnh đã xuống giống được 74.184,9 ha, đạt 100,52% kế hoạch của tỉnh (73.800 ha), giảm 1,36% so với cùng kỳ (bằng 1.022,2 ha). Tính đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh đã thu hoạch được 71.318,2 ha, giảm 4,79% (bằng 3.590,69 ha) so với cùng kỳ. Các hộ nông dân đang đẩy nhanh tiến độ thu hoạch lúa, do tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, nhất là về cuối vụ, tình trạng mưa, bão kéo dài, làm chậm tiến độ thu hoạch lúa, gây ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng lúa. Các giống lúa được sử dụng chủ yếu trong vụ Hè thu như: OM18 chiếm 69,9%, Đài thơm 8 chiếm 5,4%, OM5451 chiếm 21,8%, còn lại là các giống khác chiếm 2,9% như: OM380, OM34, IR50404,… Giá lúa tươi tại ruộng một số giống như sau: OM5451 có giá dao động từ 7.200-7.300 đồng/kg; OM18 có giá từ 7.500-7.800 đồng/kg. Nhìn chung, giá lúa tăng so với cùng kỳ từ 1.000-1.200 đồng/kg.
Lúa Thu đông năm 2024: Bên cạnh việc thu hoạch lúa Hè thu, các huyện trong tỉnh cũng đang khẩn trương xuống giống vụ Thu đông do giá lúa vẫn còn đang cao so với các năm trước. Hiện tỉnh đã xuống giống được 26.710 ha, giảm 0,71% (bằng 192 ha) so với cùng kỳ, lúa đang trong giai đoạn mạ, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống được sử dụng chủ yếu như: OM18, Đài thơm 8, OM5451,…
Mía niên vụ 2023-2024: Diện tích gieo trồng đạt 3.216,2 ha, đạt 102,1% kế hoạch tỉnh (3.150 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 2,12% so với cùng kỳ (bằng 69,5 ha), do chuyển đổi sang trồng cây rau màu và cây lâu năm. Hiện nay đã thu hoạch được 1.093 ha. Giá mía ROC 16 bán mía ép nước giải khát có giá 1.400-1.600 đồng/kg, các giống Suphen có giá 1.300-1.400 đồng/kg. Giá bán giảm 200-300 đồng/kg so với tháng trước. Diện tích còn lại chủ yếu ở giai đoạn 9-10 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng hiện có 2.094,64 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 4,97% (bằng 109,44 ha); năng suất ước đạt 58,99 tạ/ha, giảm 2,61% (bằng 1,58 tạ/ha); sản lượng ước được 11.614,72 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 7,77% (bằng 978,66 tấn). Nguyên nhân sản lượng giảm do thay đổi lịch thời vụ nên diện tích thu hoạch giảm mạnh so với cùng kỳ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng hiện có 19.945,36 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 2,41% (bằng 492,26 ha); ước sản lượng được 282.173,09 tấn, tăng 9,65% (bằng 24.837,02 tấn). Nguyên nhân sản lượng tăng mạnh so với cùng kỳ là do chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang loại có năng suất cao và thời tiết cũng thuận lợi nên sản lượng tăng.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của tỉnh so với cùng kỳ:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.328,15 ha, tăng 3,50% (bằng 112,4 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 26.689,57 tấn, tăng 5,21% (bằng 1.321,16 tấn). Nguyên nhân tăng so cùng kỳ là do hộ chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi hơn, diện tích thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.717,05 ha, tăng 1,18% (bằng 20,05 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 12.018,79 tấn, tăng 7,51% (bằng 839,67 tấn), do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có 10.164,06 ha, tăng 1,12% (bằng 112,23 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 98.016,82 tấn, tăng 17,82% (bằng 14.827,56 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích đã đến kỳ thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.970,66 ha, tăng 3,17% (bằng 91,41 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 24.391,68 tấn, tăng 3,27% (bằng 772,06 tấn).
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 706,87 ha, giảm 0,91% (bằng 6,49 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 6.714,08 tấn, tăng 8,98% (bằng 553,29 tấn), do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện, người dân ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất.
- Cây Sầu riêng: Diện tích hiện có 2.870,52 ha, tăng 7,37% (bằng 197,14 ha). Sản lượng 9 tháng ước được 4.910,59 tấn, tăng 49,07% (bằng 1.616,44 tấn), do diện tích thu hoạch tăng và phần lớn cây trồng đến giai đoạn cho trái nhiều nên tăng cao.
4.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt… Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến tháng 9/2024, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu: Đàn trâu ước được 1.204 con, giảm 4,29% (bằng 54 con) so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước được 106 tấn, giảm 4% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi ngày càng bị thu hẹp, người dân chuyển sang nuôi các loại vật nuôi khác có lợi nhuận cao hơn.
- Đàn bò: Ước được 4.328 con, tăng 4,87% (bằng 201 con) so với cùng kỳ. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước được 187 tấn, tăng 5,44% so với cùng kỳ, nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do nuôi bò ít dịch bệnh, giá cả ổn định, người chăn nuôi có lãi nên nuôi nhiều hơn.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 146.020 con, tăng 0,42% (bằng 614 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 103.039 con, tăng 0,31% (bằng 315 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại, giá bán đang ổn định. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước được 17.796 tấn, tăng 5,63% so với cùng kỳ.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.500,52 ngàn con, tăng 6,37% (bằng 269,37 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà 1.717,5 ngàn con, tăng 9,92% (bằng 155,07 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định và ít xảy ra dịch bệnh. Vì vậy, sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng cũng tăng so với cùng kỳ, ước khoảng 12.252 tấn, tăng 5,22%. Sản lượng trứng gia cầm ước được 131.693 nghìn quả, tăng 7,37% so với cùng kỳ.
Tình hình dịch bệnh dịch tả heo Châu Phi trên địa bàn tỉnh:
- Tính đến ngày 11/7/2024, trên địa bàn thành phố Vị Thanh xảy ra 02 ổ dịch bệnh Dịch tả heo Châu Phi, tại xã Hoả Lựu và xã Vị Tân của 16 hộ chăn nuôi heo thuộc Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cải thiện dinh dưỡng thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2024, tổng số lượng 133 con (trọng lượng khoảng 20kg/con). Tổng số heo chết, tiêu hủy đến thời điểm báo cáo là 133 con với trọng lượng 2.498 kg.
- Ngày 20/8/2024, trên địa bàn huyện Vị Thủy xảy ra 01 ổ dịch bệnh Dịch tả heo Châu Phi tại hộ ông Phạm Văn Thiên, tổng số lượng 61 con. Tổng số heo chết, tiêu hủy đến thời điểm báo cáo là 61 con, với trọng lượng 1.589 kg. Đến thời điểm hiện tại, dịch bệnh chỉ xảy ra tại 01 hộ nêu trên chưa có chiều hướng lây lan ra diện rộng. Tính từ ngày tiêu hủy cuối cùng (ngày 20/8/2024) đến nay đã hơn 21 ngày trên địa bàn tỉnh không có heo bệnh và chết do dịch bệnh.
- Đến thời điểm hiện tại dịch bệnh chỉ xảy ra tại 03 ổ dịch (17 hộ) nêu trên và đã được khống chế.
4.2. Lâm nghiệp
Tình hình sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Ngành chức năng tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng. Vì vậy, tính từ đầu năm đến nay diện tích rừng trên địa bàn tỉnh luôn được bảo vệ an toàn, không xảy ra cháy rừng.
Ước tính tháng 9/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung được 54,18 ha, giảm 1,92% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác ước được 4.352 m3, tăng 7,11%; sản lượng củi khai thác ước khoảng 3.115 ste, tăng 2,27% so với cùng kỳ.
Ước tính 9 tháng năm 2024, số cây lâm nghiệp trồng phân tán của tỉnh được 1.479,1 ngàn cây, tăng 2,20% so với cùng kỳ. Ước diện tích rừng trồng mới tập trung được 186,40 ha, tăng 0,64%. Sản lượng gỗ khai thác ước khoảng 12.326,1 m3, tăng 4,76%; sản lượng củi khai thác ước được 61.601,28 ste, tăng 0,93% so với cùng kỳ.
4.3. Thủy sản
Ước tính tháng 9/2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 831,02 ha, tăng 1,23%2 (bằng 10,1 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước được 12.901,37 ha, tăng 5,17% (bằng 634,7 ha) so với cùng kỳ. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 12.689,86 ha, tăng 5,08% (bằng 613,61 ha). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 94,7 ha, tăng 32% (bằng 22,96 ha) so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm được 116,72 ha, tăng 19,65% (bằng 19,17 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (mô hình nuôi tôm càng xanh trong đê ngăn mặn đang phát triển); diện tích nuôi thủy sản khác được 94,79 ha, tăng 2,07% (bằng 1,92 ha); Thể tích nuôi lươn được 21.394 m3, tăng 27,58% (bằng 4.625 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 9/2024, tổng sản lượng thủy sản được 12.543,87 tấn, tăng 7,45% (bằng 869,38 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra: Sản lượng thuỷ sản khai thác được 96,64 tấn, giảm 0,72%; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng được 12.447,23 tấn, tăng 7,52% so với cùng kỳ.
Ước tính 9 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản được 60.056,29 tấn, tăng 6,21% (bằng 3.510,93 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Cụ thể như sau:
- Sản lượng thủy sản khai thác ước được 2.084,58 tấn, tăng 3,02% (bằng 61,07 tấn) so cùng kỳ. Do hộ khai thác nội địa từ khai thác thủy sản khác (lươn, ếch…) đang có chiều hướng có lợi nên tăng mạnh.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước được 57.971,71 tấn, tăng 6,33% (bằng 3.449,86 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 3.490,68 tấn, tăng 7,85% (bằng 254,21 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 1.744,63 tấn, tăng 24,34% (bằng 341,57 tấn) so với cùng kỳ. Hai sản phẩm này thời gian qua đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
5. Tình hình sản xuất công nghiệp
Năm 2024 là năm thứ tư thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, với nhiệm vụ là phấn đấu cao nhất để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong bối cảnh các năm đầu của kỳ kế hoạch gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19 và biến động địa chính trị toàn cầu. Trên cơ sở đánh giá toàn diện bối cảnh tình hình, Đảng và Chính phủ đã đề ra các định hướng và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu của năm 2024 là tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiên trì mục tiêu tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh thời gian tới, để đạt và vượt mục tiêu kinh tế đã đề ra.
Ước thực hiện tháng 9/2024, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 3.959,17 tỷ đồng, tăng 3,32% so với tháng trước và tăng 19,33% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành, được 7.103,29 tỷ đồng, tăng 2,69% so với tháng trước và tăng 21,99% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng là do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã phục hồi và phát triển ổn định trong thời gian vừa qua, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Đặc biệt, tỉnh đang ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản hiện đang có lợi thế cạnh tranh, do tận dụng được nguồn nguyên liệu tại chỗ, có khả năng xuất khẩu, bảo đảm an toàn thực phẩm theo quy chuẩn quốc tế. Ngoài ra, tăng một phần là do các chính sách ưu đãi thuế, chính sách giải quyết các thủ tục hành chính tinh gọn của các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền và quan trọng nhất là dự án các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh Hậu Giang đang trong giai đoạn đầu tư - xây dựng, nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn đến đầu tư hoặc doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả mở rộng quy mô nhà máy. Cụ thể như: Công ty TNHH Number One Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất đường RE, với sản lượng dự tính tháng 9/2024 được 1.010 tấn; Công ty TNHH MTV Masan HG đã đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất sữa có đường các loại, với sản lượng dự tính tháng 9/2024 được 685 tấn,... Vì vậy, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 31.126,92 tỷ đồng, tăng 13,66% so với cùng kỳ năm trước, đạt 99,38% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra và đạt 73,27% so với kế hoạch năm 2024.
- Tính theo giá hiện hành, được 56.032,66 tỷ đồng, tăng 15,97% so với cùng kỳ năm trước, đạt 101,95% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng năm 2024 của tỉnh đã đề ra và đạt 75,18% so với kế hoạch năm 2024. Trong đó:
+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 43.060,11 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 76,85% trong toàn ngành và tăng 15,45% so với cùng kỳ. Trong đó, giá trị sản xuất một số ngành chiếm tỷ trọng lớn và tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng trên 13,81% so với cùng kỳ; sản xuất đồ uống tăng trên 17,88% so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 46,69% so với cùng kỳ; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng trên 9,8% so với cùng kỳ; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng trên 17,89%;... Vì vậy, đã làm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng so với cùng kỳ năm trước.
+ Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 12.645,63 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22,57% trong toàn ngành công nghiệp và tăng 17,86% so với cùng kỳ, do trong quý II các nhà máy thủy điện thiếu nước để vận hành liên tục, nên nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I và các dự án điện năng lượng mặt trời trên địa bàn tỉnh đã vận hành tăng công suất từ tháng 4 đến tháng 7/2024, để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của các hộ dân cư và doanh nghiệp được hoạt động một cách liên tục. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành này 9 tháng năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
+ Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tạo giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 326,91 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,58% trong toàn ngành và tăng 13,11% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, dự tính sản lượng sản xuất 9 tháng năm 2024 được 9,82 triệu M3, chiếm tỷ trọng 45,85% trong ngành sản xuất nước sạch sinh hoạt và tăng 14,14% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 9/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 16,31% so với cùng kỳ, đây cũng là tháng có mức tăng trưởng so với cùng kỳ cao nhất từ đầu năm đến nay. Trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,69% so với tháng trước và tăng 15,94% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 22,23% so với cùng kỳ (Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 9/2024 được 568 triệu kwh, tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 23,75% so với cùng kỳ, do hiện nay các nhà máy thủy điện đã đủ nước để vận hành liên tục nên sản lượng điện sản xuất có giảm so với những tháng trong quý II/2024 nhưng vẫn tăng cao so với cùng kỳ); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,46% so với tháng trước và tăng 13,26% so với cùng kỳ (Hiện nay, người dân nông thôn ý thức được việc sử dụng nước sạch trong sinh hoạt, nên Công Ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, hoạt động liên tục, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân, sản lượng sản xuất nước sạch sinh hoạt của các doanh nghiệp này ước tháng 9/2024 được 2.291,77 ngàn m3, tăng 10,30% so với cùng kỳ năm trước).
Dự tính 9 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,61% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 11,41% của 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 16,91% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Trong đó:
- Ngành chế biến, chế tạo: Với 267 doanh nghiệp và trên 4.212 cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp đang hoạt động sản xuất trong ngành này, là ngành chiếm tỷ trọng lớn về giá trị sản xuất trên 74,98% trong toàn ngành và chỉ số sản xuất tăng 10,08% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 6,99% của 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn mức tăng 14,02% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Cụ thể một số ngành như sau:
+ Ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 15,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản, chiếm tỷ trọng trên 43,07% trong ngành chế biến thực phẩm và tăng 20,1% so với cùng kỳ (Nguyên nhân là do Công ty CP Minh Phú Hậu Giang, mới đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động một phân xưởng dự kiến trên 2.000 lao động, dự tính sản lượng sản xuất 9 tháng được 22.711 tấn tôm, tăng 23,16% so với cùng kỳ năm trước); Xay xát và sản xuất bột thô tăng 28,01% so với cùng kỳ; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 361,9% so với cùng kỳ (Nguyên nhân do Công ty TNHH MTV Masan HG đầu tư và đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất sữa từ cuối năm 2023 đến nay, nên làm chỉ số sản xuất ngành này tăng đột biến so với cùng kỳ); sản xuất mì ống, mì sợi ăn liền tăng 26,36% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
+ Sản xuất đồ uống tăng 8,72% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan Brewery Hậu Giang đã đầu tư cải tiến mẫu mã sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, nên sản lượng của doanh nghiệp tăng 24,55% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, đã làm chỉ số ngành sản xuất đồ uống tăng so với cùng kỳ.
+ Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 58,20% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 12.298 lao động (chỉ số lao động tăng trên 2,1% so với cùng kỳ), sản phẩm của công ty chủ yếu là sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này. Trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được nhiều hợp đồng sản xuất giày có chất lượng cao tại những thị trường truyền thống như: Canada, Đức, Hoa Kỳ, Mexico,... nên doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động, tăng ca thường xuyên để hoàn thành các hợp đồng đã ký. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.
+ Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 17,26% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do ngành này có 101 cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp đang hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất 9 tháng trên 718,32 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 85,11% trong ngành này và tăng 18,79% so với cùng kỳ năm trước, do từ đầu năm đến nay các cơ sở sản xuất cửa sắt, nhôm tăng sản lượng sản xuất để phục vụ các công trình xây dựng nhà ở. Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Với 85 doanh nghiệp và trên 178 cơ sở cá thể công nghiệp hoạt động trong ngành này, sản xuất các sản phẩm chủ yếu là điện năng lượng mặt trời, nhiệt điện than và truyền tải điện năng, sản xuất nước đá, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 17,97% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 160,8% của 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ và thấp hơn rất nhiều mức tăng 732,31% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ, nguyên nhân là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã hoạt động ổn định nên chỉ số sản xuất không còn tăng đột biến như thời điểm mới hoạt động trong năm 2022 và năm 2023), nhưng tăng cao so với cùng kỳ là do nhu cầu sử dụng điện nhiều ở mùa nắng nóng trong quý II/2024, nên nhà máy nhiệt điện tăng công suất vận hành từ tháng 4 đến nay so với cùng kỳ, dự tính sản lượng điện sản xuất 9 tháng năm 2024 được 5.281 triệu kwh, tăng 18,47% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Với 9 doanh nghiệp hoạt động trong ngành này, chỉ số sản xuất tăng 9,38% so với cùng kỳ năm trước (thấp hơn mức tăng 13,96% của 9 tháng năm 2023 so với cùng kỳ nhưng cao hơn mức tăng 7,57% của 9 tháng năm 2022 so với cùng kỳ). Nguyên nhân là do Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, dự tính sản lượng sản xuất 9 tháng năm 2024 được 9.825 ngàn m3, chiếm tỷ trọng 45,85% trong ngành sản xuất nước sạch sinh hoạt và tăng 14,14% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành này tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Tình hình sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh trong 9 tháng năm 2024 so với cùng kỳ như sau: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh tăng 27,53%; sản lượng sản xuất bia đóng chai tăng 24,55%; sản lượng sản xuất giày dép các loại tăng 61,71%; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác tăng 0,21%; sản lượng điện sản xuất tăng 18,47%;…. Nguyên nhân là do các công ty đã cải tiến máy móc, thiết bị, mẫu mã sản phẩm, mở rộng thị trưởng tiêu thụ nên chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng so với cùng kỳ, kéo theo sản lượng sản xuất tăng. Bên cạnh các sản phẩm tăng vẫn còn một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng nước mắm sản xuất giảm 8,7%; thuốc diệt nấm giảm 31,45%,…
Tình hình tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tính đến thời điểm tháng 9/2024, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,64% so với tháng trước và tăng 51,61% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024 tăng 16,26% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số tiêu thụ tăng chủ yếu ở các nhóm hàng hóa xuất khẩu là chủ yếu như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,40% so với cùng kỳ; sản xuất đồ uống tăng 14,54% so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 56,15% so với cùng kỳ,… Ở chiều ngược lại một số nhóm hàng hóa có chỉ số tiêu thụ giảm nhẹ so với cùng kỳ, do tính chất mùa vụ hoặc ảnh hưởng thời tiết nhưng tỷ trọng của các ngành này không đáng kể trong toàn ngành. Vì vậy, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tăng so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ước tính tại thời điểm 30/9/2024, chỉ số tồn kho giảm 37,60% so với cùng thời điểm năm 2023, trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: Gạo đã xay xát toàn bộ hoặc sơ bộ, đã hoặc chưa đánh bóng hạt giảm 93,32%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 30,64%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 15,74%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 79,07%;... Nhìn chung, tình hình sản xuất ngành công nghiệp, chế biến chế tạo tăng trưởng cao hơn cùng thời điểm năm trước, chỉ số tiêu thụ một số ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng so với cùng thời điểm năm 2023, chỉ số hàng tồn kho giảm mạnh, cho thấy hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh đến thời điểm hiện tại đã phục hồi do thị trường tiêu thụ ổn định tại những thị trường truyền thống và mở rộng ra những thị trường mới, nên nhận định ngành công nghiệp tỉnh Hậu Giang tiếp tục tăng trưởng ổn định trong những tháng cuối năm 2024.
Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/9/2024, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 0,59% so với tháng trước và tăng 0,33% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024 tăng 0,74% so với cùng kỳ. Trong 9 tháng năm 2024 một số ngành sử dụng nhiều lao động nhưng có chỉ số sử dụng lao động tăng nhiều so với cùng kỳ như: Sản xuất trang phục tăng 8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 5,09%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 27,06%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 1,54%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 7,07%;... Qua đó cho thấy lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh hết sức dồi dào và tình hình hoạt động của các doanh nghiệp lớn trong khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hết sức ổn định và đã thu hút lượng lớn lao động làm ăn xa trở về tỉnh làm việc cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động của toàn tỉnh trong 9 tháng năm 2024 tăng nhẹ so với cùng kỳ.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 9 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, để ngành công nghiệp tăng trưởng cao hơn nữa, tạo nền tảng thực hiện đạt các mục tiêu của kịch bản tăng trưởng năm 2024 Tỉnh Hậu Giang, cần tập trung một số giải pháp trọng tâm sau:
- Đối với cơ quan quản lý cần hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm như: Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ thuế, phí xuất khẩu, kích cầu tiêu dùng trong nước,…. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư như: Công ty TNHH Thức ăn Tôm Xanh Minh Phú (sản xuất thức ăn chăn nuôi); Công ty CP Tập đoàn Masan (sản xuất mì ống, bún, gia vị các loại…), Công ty TNHH MTV Sunpro Steel (sản xuất thép),… sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra.
- Đối với doanh nghiệp, cần chủ động nắm bắt, tận dụng cơ hội sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đơn hàng mới từ những thị trường ổn định hơn, đồng thời có các phương án thích ứng với những biến động trong tương lai; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp phụ trợ trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sẵn sàng chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại của các nước là đối tác nhập khẩu, để làm chủ thị trường trong và ngoài nước trong những năm tiếp theo.
6. Hoạt động thương mại, dịch vụ
6.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Ước tính tháng 9/2024, tổng doanh thu bán lẻ, dịch vụ lưu trú ăn uống và các ngành dịch vụ tiêu dùng thực hiện được 5.608,57 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,77% và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,28%. Tình hình hoạt động thương mại dịch vụ trong tháng được dự ước tiếp tục có đà tăng trưởng ổn định, dù thời tiết không thuận lợi có mưa nhiều do ảnh hưởng bão nhưng nhìn chung vẫn không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động mua bán của các tiểu thương. Trong tháng 9/2024, doanh thu bán lẻ dự tính vẫn có mức tăng 21,92%, dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,13% so với cùng kỳ sẽ là những ngành đóng góp chính vào tốc độ tăng trưởng chung. Cụ thể từng ngành như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 4.157,10 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,47% và so với cùng kỳ bằng 121,92%. Hoạt động lễ khai giảng năm học mới niên khóa 2024 - 2025 và lễ Tết Trung thu diễn ra trọn trong tháng 9, cùng với việc giá vàng tiếp tục biến động tăng trong những phiên giao dịch vừa qua là những nguyên nhân chính giúp hoạt động bán lẻ hàng hóa trong tháng 9 diễn ra sôi động. Nhu cầu mua sắm đồ dùng, dụng cụ học tập, đồng phục quần áo, hàng lương thực thực phẩm, các loại bánh, mứt tăng lên nhiều so với tháng trước. Cụ thể nhóm hàng lương thực thực phẩm có tốc độ tăng 3,05%, hàng may mặc tăng 1,42%, vật phẩm giáo dục tăng 3,37%, nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 2,58% là những nhóm hàng chủ yếu đóng góp nhiều vào tốc độ tăng chung so với tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, hầu hết các nhóm hàng chi tiết trong tháng đều có mức tăng. Trong đó, các nhóm ngành hàng chủ lực chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu bán lẻ như: Lương thực thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng trang thiết bị gia đình, gỗ và vật liệu xây dựng và nhóm hàng hóa khác tính chung là những ngành có đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng chung. Các nhóm hàng này so với cùng kỳ có mức tăng lần lượt 26,20%, 40,84%, 21,83%, 28,54% và 32,41%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 678,37 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,84% và so với cùng kỳ năm trước bằng 113,13%3. mưa nhiều đã phần nào ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngành ăn uống. Dù vậy, các hoạt động tổ chức Tết Trung thu cho các em thiếu nhi vẫn diễn ra nhộn nhịp. Vì vậy, doanh thu hoạt động ăn uống trong tháng 9/2024 được dự ước vẫn có giá trị tăng so với cùng kỳ nhưng ở mức thấp hơn so với thời điểm tháng 8/2024 (tháng 9 tăng 12,94% thấp hơn mức 17,25% của tháng 8). Trong đó:
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được dự tính giảm so với tháng trước, nguyên nhân do doanh thu hoạt động xổ số giảm 20,96%, tổng doanh thu trong tháng ước thực hiện được 773,09 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 90,98% và so với cùng kỳ năm trước bằng 105,54%.
Ước tính 9 tháng năm 2024, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện được 45.235,06 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 108,72%, so với kịch bản tăng trưởng bằng 104,60% và so với kế hoạch năm bằng 85,38%. Về cơ cấu các nhóm hàng vẫn ổn định và không có nhiều thay đổi so với 9 tháng năm 2023. Doanh thu hoạt động do ngành bán lẻ tạo ra vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 72%) và là ngành có giá trị ảnh hưởng nhiều nhất đến tốc độ tăng trưởng chung. Tính chung 9 tháng năm 2024 so với cùng kỳ ngành này đạt mức tăng 6,59% (cao hơn mức 4,67% của thời điểm 8 tháng, ngành bán lẻ đã và đang dần tăng trưởng trở lại sau các tháng sụt giảm giá trị). Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 32.660,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 106,59%, so với kịch bản tăng trưởng bằng 102,15%. Cơ cấu các nhóm hàng so với năm 2023 vẫn ổn định và không có nhiều thay đổi. Lương thực thực phẩm, đồ dùng trang thiết bị gia đình, hàng may mặc là những nhóm hàng tạo ra doanh thu lớn và đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng của tổng doanh thu bán lẻ, so với cùng kỳ các ngành này lần lượt có mức tăng 12,54%, 16,13%, 33,03%. Đánh giá chung hoạt động toàn ngành bán lẻ hiện đang từng bước hồi phục qua các tháng (quy mô doanh thu bắt đầu tăng trở lại tính từ thời điểm tháng đầu tiên của quý III), tốc độ tăng trưởng những tháng gần đây duy trì được ở mức ổn định và so với cùng kỳ tăng bình quân trên 10%/tháng.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 5.666,83 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,47%, so với kịch bản tăng trưởng bằng 108,21%. Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 229,73 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 125,50%; Ngành ăn uống ước tính được 5.437,10 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,08%. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh lưu trú và ăn uống tính chung 9 tháng của các cơ sở nhà hàng, khách sạn ít biến động và giữ được doanh thu ổn định.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 6.907,42 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,98%, so với kịch bản tăng trưởng của tỉnh bằng 114,46%. Tình hình chung qua 9 tháng, hầu hết các nhóm hàng dịch vụ đều có tốc độ tăng tương đối cao so với cùng kỳ năm trước. Dịch vụ hành chính hỗ trợ tăng 32,04%, giáo dục tăng 27,93%, y tế tăng 61,04%, hoạt động xổ số tăng 5%, dịch vụ khác tăng 38,75%.
6.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 9/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 115.624 nghìn USD, so với tháng trước bằng 96,25% và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,04%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 82.860 nghìn USD, so với tháng trước bằng 93,17% và so với cùng kỳ năm trước bằng 105,45%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 32.764 nghìn USD, so với tháng trước bằng 105,03% và so với cùng kỳ năm trước bằng 83,25%.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 957.986 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 104,52%, so với kế hoạch năm đạt 75,55% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 101,09%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 666.074 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,28%, so với kế hoạch năm đạt 82,64% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 113,69%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 261.903 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 89,68%, so với kế hoạch năm đạt 62,66% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 79,70%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 153 nghìn USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 66,81%, so với kế hoạch năm đạt 15,30% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 20,82%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 29.856 nghìn USD so với cùng kỳ năm trước bằng 96,04%, so với kế hoạch năm đạt 69,43% và so với kịch bản tăng trưởng tỉnh đạt 91,91%.
Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp 9 tháng năm 2024 tăng 4,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị xuất khẩu tăng 12,28%, tăng chủ yếu là do mặt hàng giày dép các loại (chiếm tỷ trọng 37,26%) tăng 47,19% so cùng kỳ; nhập khẩu giảm 10,23% so với cùng kỳ, giảm chủ yếu do ảnh hưởng của các nhóm hàng như: Mặt hàng giấy các loại (chiếm tỷ trọng 19,98%) giảm 40,22%, hóa chất (chiếm tỷ trọng 12,05%) giảm 31,72%, hàng hóa khác (chiếm tỷ trọng 11,69%) giảm 23,47%,....
Về thị trường xuất khẩu trong 9 tháng năm 2024, các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được 83 quốc gia và vùng lãnh thổ, so với cùng kỳ năm trước thì số lượng các thị trường xuất khẩu giảm 2 quốc gia (bằng 97,65% so cùng kỳ). Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp không có sự thay đổi nhiều so với năm trước, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là Châu Á (khu vực Đông Á và Đông Nam Á) chiếm giá trị lớn nhất, Châu Âu (trong đó khu vực Tây Âu) là chủ yếu và Châu Mỹ (trong đó khu vực Bắc Mỹ) là chủ yếu. Giá trị xuất khẩu của các khu vực này có sự tăng giảm lẫn nhau so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, giá trị xuất khẩu của các khu vực trên so với cùng kỳ năm trước lần lượt là: khu vực Châu Á giảm 4,73% (chiếm tỷ trọng 41,32%), khu vực Châu Âu tăng 131,56% (chiếm tỷ trọng 25,89%), Châu Mỹ giảm 8,72% (chiếm tỷ trọng 25,64%), đây là khu vực xuất khẩu có giá trị giảm nhiều nhất trong 9 tháng năm 2024 (giảm 144.655 nghìn USD) so với cùng kỳ năm trước; còn lại là các khu vực khác (chiếm tỷ trọng 7,15%).
Trong 9 tháng năm 2024, một số thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng lớn có quan hệ giao thương với các doanh nghiệp trên địa bàn có mức tăng trưởng trở lại so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá trị xuất khẩu qua thị trường Hàn Quốc tăng 36,45%, Nhật Bản tăng 31,45%. Tuy nhiên thị trường Trung Quốc giảm 21,57%, Hoa Kỳ giảm 16,53% so với cùng kỳ. Ngoài các thị trường trên thì tổng chung tất cả các thị trường còn lại vẫn có mức tăng trưởng ổn định. Do đó, đã giúp tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa trực tiếp chung 9 tháng năm 2024 vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 12,28%.
Về cán cân thương mại hàng hóa tháng 9/2024 ước tính xuất siêu được 50.096 nghìn USD. Tính chung 9 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu được 404.171 nghìn USD. Trong đó, khu vực các doanh nghiệp trong nước xuất siêu được 275.060 nghìn USD, khu vực FDI xuất siêu được 129.111 nghìn USD.
6.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Ước tính tháng 9/2024, tổng doanh thu dịch vụ vận tải và kho bãi thực hiện được 168,83 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,80% và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,84%. Trong tháng 9, diễn ra hoạt động khai giảng năm học mới, cũng là thời điểm nhập học của các đối tượng sinh viên cao đẳng, đại học nên nhu cầu đi lại tăng nhiều hơn so với tháng trước. Các cơ sở vận tải bằng xe khách, xe dịch vụ đường bộ có lượng khách tăng, do đó doanh thu vận chuyển hành khách trong tháng tăng 2,67%, ngoài ra doanh thu hoạt động vận chuyển hàng hóa đường thủy cũng tăng 128,92% so cùng kỳ năm 2023. Cụ thể:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 86,52 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,95% và so với cùng kỳ năm trước bằng 106,32%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 64,06 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,25% và so với cùng kỳ năm trước bằng 214,18%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 18,25 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 97,66% và so với cùng kỳ năm trước bằng 52,97%.
Trong 9 tháng mặc dù tình hình thời tiết không thuận lợi hơn so với cùng kỳ nhưng nhìn chung hoạt động của ngành vận tải, kho bãi vẫn trên đà phát triển và có bước tăng trưởng khá. Doanh thu các loại hình vận chuyển đường bộ và đường thủy tạo ra vẫn duy trì tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2023. Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện 9 tháng năm 2024 được 1.362,64 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,56%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 758,63 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 115,09%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 396,77 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 145,50%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 207,24 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 68,95%. Nguyên nhân giảm nhiều so với cùng kỳ là do Công ty dịch vụ logistic An Hưng (bình quân 10 tỷ/tháng) giải thể không còn hoạt động.
6.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 9/2024, toàn tỉnh vận chuyển được 615,66 nghìn tấn hàng hóa các loại (106.794,81 nghìn tấn.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,86% (103,02%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 128,48% (132,54%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 94,33 nghìn tấn (14.209,64 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 97,77% (99,03%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 81,09% (77,94%).
- Đường sông thực hiện được 521,33 nghìn tấn (92.585,17 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,84% (103,66%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 143,68% (148,51%).
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, toàn tỉnh vận chuyển được 4.630,83 nghìn tấn hàng hóa các loại (792.097,33 nghìn tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 106,57% (112,13%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 894,52 nghìn tấn (138.814,88 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 86,29% (83,93%).
- Đường sông thực hiện được 3.736,31 nghìn tấn (653.282,45 nghìn tấn.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 112,93% (120,75%).
6.3.2. Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 9/2024, toàn tỉnh thực hiện được 2.585,02 nghìn lượt hành khách (60.344,49 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 102,85% (103,46%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,70% (124,25%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 257,41 nghìn lượt hành khách (52.654,67 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 103,60% (103,26%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 125,75% (125,56%).
- Đường sông vận chuyển được 2.327,61 nghìn lượt hành khách (7.689,82 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,77% (104,84%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,17% (116%).
Ước thực hiện 9 tháng năm 2024, toàn tỉnh thực hiện được 21.735,56 nghìn lượt hành khách (502.650,74 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 99,40% (115,65%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 2.109,35 nghìn lượt hành khách (438.390,74 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 117,67% (117,26%).
- Đường sông vận chuyển được 19.626,21 nghìn lượt hành khách (64.260,00 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 97,77% (105,71%).
7. Các vấn đề về xã hội
7.1. Giáo dục
Mạng lưới trường học: Toàn ngành có 317 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 88 trường (5 trường tư thục); tiểu học có 144 trường, trung học cơ sở có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam) và 23 trường trung học phổ thông (trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh); 01 Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tỉnh Hậu Giang (trước đây là Trường Dạy trẻ khuyết tật tỉnh Hậu Giang); có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Huy động học sinh đầu năm học: Tính đến thời điểm ngày 05/9/2024, đã huy động học sinh từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông là 151.335/154.990, đạt 97,64%, cụ thể như sau:
- Giáo dục Mầm non:
+ Nhà trẻ: 2.107/2.900, đạt tỉ lệ 72,65%.
+ Mẫu giáo: 21.551/24.800, đạt tỉ lệ 86,90%.
- Giáo dục phổ thông:
+ Tiểu học: 58.683/62.800 đạt tỉ lệ 93,44%.
+ THCS: 48.589/44.620, đạt tỉ lệ 108,90%.
+ THPT: 20.405/19.870, đạt tỉ lệ 102,69%.
Trong tháng, toàn ngành tập trung vào một số công tác chuyên môn sau:
- Hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2024-2025 các cấp học.
- Triển khai công tác giáo dục an toàn giao thông và Chương trình "Tôi yêu Việt Nam" cấp học mầm non năm học 2024-2025.
- Chỉ đạo nhân rộng các mô hình điểm và Hội thi "Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm" trong các cơ sở giáo dục mầm non.
- Triển khai Chương trình giáo dục, truyền thông về nước sạch, bảo vệ môi trường năm 2024 trong các trường tiểu học (triển khai thí điểm tại 17 trường thuộc 08 huyện, thị xã, thành phố).
- Hướng dẫn các Phòng Giáo dục và Đào tạo triển khai tổ chức hoạt động giáo dục STEM trong giáo dục tiểu học từ năm học 2024-2025.
- Hướng dẫn dạy học môn học tiếng dân tộc thiểu số cho học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 3 và lớp 4 năm học 2024-2025.
- Triển khai kế hoạch thực hiện tổ chức hội thảo, chuyên đề cấp tiểu học năm học 2024-2025.
- Hướng dẫn các đơn vị tổ chức thi chọn đội tuyển dự thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2024-2025.
7.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền chuyên đề toàn khóa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; tuyên truyền về an toàn giao thông 2024; tuyên truyền chào mừng kỷ niệm 79 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2024) và Quốc khánh Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2024);...
Hoạt động Thư viện: Tổ chức triển lãm 2.500 quyển sách bằng xe Thư viện lưu động đa phương tiện và trưng bày tại gian triển lãm phục vụ các sự kiện của địa phương; trưng bày 150 quyển sách tại Thư viện tỉnh bao gồm sách chuyên đề Ngày Vì nạn nhân chất độc màu da cam 10-8; sách kỷ niệm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9; sách kỷ niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9; sách mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; sách chuyên đề về cải cách hành chính và tủ sách Bác Hồ. Đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc đến Thư viện và phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện. Trong tháng 8/2024, phục vụ 16.158 lượt người đến thư viện và truy cập tra cứu, đọc sách qua website với 32.316 lượt sách.
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức và phối hợp tổ chức triển lãm ảnh 06 cuộc, phục vụ Đại hội Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh Hậu Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029; Hội nghị tổng kết phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; Họp mặt kỷ niệm Ngày truyền thống các cơ quan hành chính Nhà nước 28/8 và kỷ niệm 20 năm thành lập Văn phòng UBND tỉnh;… Thực hiện sưu tầm và viết lý lịch 30 hiện vật bổ sung vào kho cơ sở. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 10.870 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Tổ chức Tổng kết giải Marathon quốc tế “Vietcombank Mekong Delta” tỉnh Hậu Giang lần thứ V năm 2024; Tổ chức Giải Đua thuyền rồng tỉnh Hậu Giang năm 2024, thu hút 127 vận động viên đến từ 8 đơn vị huyện, thị xã và thành phố trong tỉnh; cử 02 vận động viên tham gia cùng đoàn Thể thao Việt Nam dự giải vô địch trẻ Kickboxing thế giới năm 2024 tại Hungary, kết quả đạt 01 Huy chương bạc; tham gia giải vô địch Kickboxing toàn quốc năm 2024 tại Gia Lai, kết quả đạt 01 Huy chương vàng; giải Bóng rổ U18 quốc gia tại Bình Định; giải Đua thuyền Canoeing vô địch trẻ quốc gia 2024 tại Hà Nam.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
7.3.1. Tình hình lao động và giải quyết việc làm
Về lực lượng lao động (LLLĐ): LLLĐ bao gồm những người đang làm việc và thất nghiệp từ 15 tuổi trở lên. Trong quý III/2024, LLLĐ trên địa bàn toàn Tỉnh ước có 570.396 người. So với quý II/2024 LLLĐ giảm 743 người. Dự báo xu thế trong thời gian tới, trên địa bàn Tỉnh không phát sinh thêm các khu công nghiệp. Vì vậy, LLLĐ có việc làm sẽ không tăng/giảm đột biến mà chỉ tiếp tục tăng nhẹ để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh ở địa phương.
Lao động có việc làm: Trong quý, toàn tỉnh ước có 446.911 lao động có việc làm (trong đó, lao động có việc làm trong nhóm ngành nông – lâm - thủy sản có 274.290 người, chiếm tỷ trọng 61,38%; nhóm ngành công nghiệp - xây dựng có 64.908 người, chiếm tỷ trọng 14,52%; nhóm các ngành dịch vụ có 107.713 người, chiếm tỷ trọng 24,10%). Lao động có việc làm trong các ngành kinh tế có xu hướng tăng do các hoạt động sản xuất kinh doanh được phục hồi và phát triển tốt nên cung ứng nhiều việc làm cho thị trường lao động. Hiện nay, Tỉnh tiếp tục kêu gọi và tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Dự báo xu thế trong thời gian tới, trên địa bàn tỉnh không phát sinh thêm các khu công nghiệp, vì vậy lao động có việc làm sẽ không tăng/giảm đột biến mà chỉ tiếp tục tăng nhẹ để đáp ứng nguồn cung việc làm ở địa phương.
Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động: Trong quý, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 1,66% (năm 2023 là 2,01%). Trong quý, toàn Tỉnh ước có 3.030 người trong độ tuổi lao động có việc làm nhưng theo kết quả khảo sát, họ vẫn muốn và sẵn sàng làm thêm giờ hoặc làm thêm một công việc khác để tăng thêm thu nhập. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2024 chiếm tỷ lệ tương đối thấp, cho thấy nền kinh tế và thị trường lao động của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực; các hoạt động sản xuất kinh doanh đã phục hồi và phát triển tốt nên đã tạo ra nhiều việc làm và thu hút lao động, đó là lý do chính làm cho tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần trong thời gian qua. Hiện nay, lao động qua đào tạo có bằng hoặc chứng chỉ của tỉnh hiện nay còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao, trong khi nhu cầu của người sử dụng lao động đòi hỏi phải là công nhân lành nghề, có tay nghề cao, đây là điều mà các cấp lãnh đạo Tỉnh đang quan tâm và có hướng đào tạo nghề, giúp cho người lao động có điều kiện hoàn thiện tay nghề và đáp ứng tốt hơn nhu cầu công việc, qua đó góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong những năm tới.
Tình hình giải quyết việc làm: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 20.106 lao động, đạt 134,04% kế hoạch, tăng 46,25% so với cùng kỳ. Trong đó, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 620 lao động, đạt 82,77% kế hoạch. Tổ chức 54 phiên giao dịch việc làm cho đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp với 4.743 lao động và 54 doanh nghiệp tham gia. Công tác đào tạo nghề cũng được tỉnh quan tâm thực hiện, kết quả đã đào tạo nghề cho 10.659 người, đạt tỷ lệ 163,98% kế hoạch năm. Trong đó: Cao đẳng 146 người; Trung cấp 902 người; Sơ cấp và dưới 3 tháng 9.611 người.
7.3.2. Tình hình đời sống dân cư và an sinh xã hội
Nhìn chung, trong 9 tháng đầu năm 2024, với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển ổn định. Vì vậy, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên, không xảy ra trường hợp thiếu đói trên địa bàn tỉnh.
Trong 9 tháng đầu năm 2024, tỉnh đã hỗ trợ cho người có công và thân nhân của người có công với cách mạng với tổng số tiền là 151.772,23 triệu đồng. Trong đó, trợ cấp, phụ cấp thường xuyên là 115.163,23 triệu đồng, vận động hỗ trợ nhân dịp 27/7 là 36.609 triệu đồng.
Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại các chương 2,3,4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 267.485,75 triệu đồng, so với cùng kỳ tăng 17.433,99 triệu đồng (tăng khoảng 21,62%). Chủ yếu tăng từ nguồn trợ cấp, phụ cấp hàng tháng (tăng 33,37%).
Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP với tổng số tiền là 60.096,33 triệu đồng, chủ yếu là hỗ trợ trong quý I (dịp lễ Tết Nguyên Đán), so với 9 tháng năm 2023 tăng 8.787,28 triệu đồng (tăng khoảng 17,13%). Nguyên nhân do tỉnh thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ giảm nghèo và vận động xã hội hoá.
Nhằm khắc phục hậu quả và ổn định cuộc sống cho người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, 9 tháng đầu năm, Ban chỉ huy phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh đã hỗ trợ đột xuất cho 18 hộ, với số tiền là 54 triệu đồng, bình quân mỗi hộ 3 triệu đồng. So với 9 tháng đầu năm năm 2023, giảm 3.319 triệu đồng (giảm khoảng 98,40%).
Vê công tác phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 72 (636) cuộc, với 3.354 (20.921) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 48 (388) cuộc, với 292 (2.299) phút tuyên truyền về tác hại của các loại tệ nạn xã hội. Về công tác quản lý đối tượng, hiện tổng số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý tại địa phương là 605 người; số người đang cai nghiện có mặt tại cơ sở cai nghiện đến thời điểm báo cáo là 240 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 58 ca mắc mới bệnh Sốt xuất huyết, tăng 29 ca so với tháng trước, cộng dồn là 207 ca, giảm 345 ca so với cùng kỳ năm 2023; bệnh Tay chân miệng có 24 ca mắc mới, giảm 08 ca so với tháng trước, cộng dồn là 685 ca, tăng 87 ca so với cùng kỳ năm 2023; bệnh Sốt phát ban/nghi sởi có 09 ca mắc mới, cộng dồn là 12 ca, tăng 12 so với cùng kỳ năm 2023; bệnh Đậu mùa khỉ có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca; tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh viêm gan do vi rút có 05 ca mắc mới, cộng dồn là 63 ca, tăng 58 ca so với cùng kỳ; bệnh Viêm não Nhật Bản có 00 ca mắc mới, cộng dồn là 01 ca, tăng 01 ca so với cùng kỳ; bệnh Quai bị chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Chương trình Tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 1.109 trẻ, cộng dồn là 7.163 trẻ, đạt 70%. Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 872 thai phụ, cộng dồn là 5.162 thai phụ, đạt 50,4%. Tiêm Sởi - Rubella (Sởi 2) trong tháng là 1.000 trẻ, cộng dồn là 7.265 trẻ, đạt 68,6%. Tiêm mũi 3 Viêm não Nhật Bản trong tháng là 889 trẻ, cộng dồn là 6.404 trẻ, đạt 60,5%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 03 ca, cộng dồn là 84 ca (tăng 38 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 2.114 ca (số đang quản lý 1.164); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca. Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 616 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 70 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.091 bệnh nhân. Tổng số lượt khám phát thuốc trong tháng là 853 lượt (Ngã Bảy: 347 lượt, CDC: 506 lượt), cộng dồn là 5.741 lượt.
Kết quả thực hiện khám, chữa bệnh đến tháng 9/2024: Tổng số lần khám là 166.803 lượt, cộng dồn là 1.378.891 lượt, đạt 84,13% kế hoạch năm. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 12.232 lượt, cộng dồn là 96.359 lượt, đạt 65,42% kế hoạch. Số ngày điều trị trung bình là 5,25 ngày, giảm 0,98 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 1.056 trường hợp, cộng dồn là 7.933 trường hợp.
7.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 9/2024, toàn tỉnh xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông, làm chết 09 người, bị thương 04 người (trong đó có 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm chết 01 người). So với tháng 8/2024, số vụ tăng 04 vụ, số người chết tăng 06 người, số người bị thương giảm 04 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ giảm 06 vụ, số người chết tăng 02 người, số người bị thương giảm 17 người. Nguyên nhân do đi không đúng phần đường là 01 vụ, vượt sai là 01 vụ, do người đi bộ là 01 vụ, nguyên nhân khác là 01 vụ, đang xác minh làm rõ 10 vụ.
Trong 9 tháng đầu năm 2024 (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/9/2024), toàn tỉnh xảy ra 124 vụ tai nạn giao thông, làm chết 60 người, bị thương 79 người. So với cùng kỳ năm 2023, số vụ giảm 05 vụ, số người chết giảm 29 người, số người bị thương tăng 08 người. Trong đó, tai nạn giao thông đường thủy xảy ra 02 vụ, làm chết 01 người, làm bị thương 01 người; so với cùng kỳ năm 2023, số vụ tăng 01 vụ, số người chết tương đương, số người bị thương tăng 01 người.
7.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng, chống cháy, nổ
Tình hình môi trường: Trong tháng không phát sinh tình trạng vi phạm môi trường. Tích lũy từ đầu năm, số vụ phát hiện là 09 vụ, đã xử lý 09 vụ (trong đó nhắc nhở 06 vụ, xử phạt 03 vụ, với số tiền 106,10 triệu đồng). So với cùng kỳ năm 2023, số vụ phát hiện giảm 17 vụ, số vụ xử lý giảm 17 vụ, số tiền xử phạt giảm 513,65 triệu đồng.
Tình hình thiên tai:
- Giông lốc: Trong tháng đã xảy ra 13 vụ giông lốc, làm sập 01 căn nhà và 22 căn nhà bị hư hại, ước thiệt hại 465 triệu đồng; so với tháng trước tăng 08 vụ, nhà sập giảm 04 căn, nhà hư hại giảm 08 căn, ước thiệt hại giảm 684 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước, số vụ tăng 11 vụ, số nhà sập bằng nhau, số nhà hư hại tăng 17 căn, ước thiệt hại tăng 405 triệu đồng. Tích lũy từ đầu năm, xảy ra 21 vụ giông lốc, làm 07 căn nhà bị sập và 60 căn nhà bị hư hại, ước thiệt hại 1.163 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 26 vụ, số nhà sập giảm 13 căn, số nhà hư hại giảm 26 căn, ước thiệt hại giảm 78 triệu đồng.
- Sạt lở, sụt lún đất: Trong tháng, không xảy ra tình trạng sạt lở, sụt lún đất. Tích lũy từ đầu năm, đã xảy ra 22 vụ sạt lở, ước giá trị thiệt hại khoảng 3.026 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước giảm 41 vụ, ước giá trị thiệt hại giảm 2.580 triệu đồng.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính, sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Vì vậy, trong tháng không xảy ra cháy nổ, tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 01 vụ cháy, nổ, ước tính giá trị tài sản thiệt hại khoảng 130 triệu đồng.
[1] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Chủ đầu tư chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án đảm bảo thời gian hoàn thành, bàn giao trong năm 2024. Bên cạnh đó, được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[2] Nguyên nhân tăng là do hộ nuôi tranh thủ thả nuôi thêm ở ruộng lúa sau khi thu hoạch lúa Hè thu muộn.
[3] Ngành lưu trú ước tính được 27,25 tỷ đồng, so tháng trước bằng 103,96% và so với cùng kỳ bằng 117,91%; Ngành ăn uống ước tính được 651,12 tỷ đồng, so tháng trước bằng 101,75% và so cùng kỳ năm trước bằng 112,94%.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang